Bé trai 20 tháng tuổi mang khối u bạch huyết "khủng" ở đùi

Thứ Ba, 09/04/2019, 12:12
Bé trai 20 tháng tuổi ở Thanh Hóa mang khối u bạch huyết "khủng" ở đùi vừa được các bác sĩ của Bệnh viện Nhi Trung ương phẫu thuật thành công.

Đó là trường hợp của bé trai Nguyễn Thế Long (20 tháng tuổi, Thanh Hóa). Bác sĩ Nguyễn Vũ Hoàng, Khoa Chỉnh hình nhi (Bệnh viện Nhi Trung ương) cho biết, các bác sĩ đã cho bé chụp cộng hưởng từ để đánh giá khối u. Sau khi thăm khám, các bác sĩ kết luận bé Long có khối u bạch huyết nằm ở toàn bộ mặt sau cơ đùi trái.

Do kích thước khối u lúc này đã rất lớn (5,3x16x17cm), nếu không loại bỏ sẽ ảnh hưởng đến chức năng vận động, bé được các bác sĩ chỉ định làm các xét nghiệm cơ bản để tiến hành phẫu thuật. Sau ca phẫu thuật kéo dài 3 giờ, khối u được giải phóng khỏi cơ thể bệnh nhi. Cháu được các bác sĩ tiến hành tiêm xơ làm giảm tỷ lệ tái phát, tạo hình vạt da cơ đùi sau, giúp hình thể đùi gọn lại.

 Đây là một phẫu thuật phức tạp do thời gian gây mê lâu, phẫu tích khối u nằm trong cơ đùi gần thần kinh hông to thần kinh đùi, bệnh nhân dễ mất máu mất dịch thể.

Khối u bạch huyết khổng lồ của bé trai đã được cắt bỏ

Theo TS.BS Hoàng Hải Đức, Trưởng khoa Chỉnh hình nhi (Bệnh viện Nhi Trung ương),  u bạch huyết là dị tật của hệ thống bạch huyết, có thể gặp ở mọi lứa tuổi và mọi vị trí của cơ thể. Trong đó, 90% xảy ra ở trẻ em dưới 2 tuổi và hay gặp ở vùng đầu, cổ. 

 U bạch huyết có thể bị từ khi còn bé (bẩm sinh) hoặc mắc phải (sau chấn thương…). U bạch huyết mắc phải thường xuất hiện sau chấn thương, viêm, hoặc tắc nghẽn bạch huyết, thường phát hiện tình cờ hoặc bệnh nhân có biểu hiện đau nhẹ tại vùng tổn thương.

Trường hợp của bé Long thuộc dạng u bạch huyết bẩm sinh và có thể chẩn đoán trước sinh, trong thời kỳ bào thai, qua siêu âm thai.

Trong một số trường hợp tổn thương u bạch huyết có thể ảnh hưởng đến chức năng vận động nhất là khi khối u to ở chân hoặc tay. Các tổn thương u bạch huyết thường không gây đau hoặc đau nhẹ

Nguyên nhân trực tiếp của u bạch huyết là sự tắc nghẽn của hệ thống bạch huyết từ thời kỳ bào thai, mặc dù các triệu chứng có thể không phát hiện được trong giai đoạn mang thai của người mẹ cho đến khi em bé được sinh ra.

Tắc nghẽn này được cho là gây ra bởi một số yếu tố, bao gồm: mẹ sử dụng rượu và nhiễm virus trong thời kỳ mang thai.

Theo bác sĩ, các biến chứng có thể gặp với u bạch huyết: gây ra chảy máu nhỏ, viêm mô tế bào tái phát và rò rỉ dịch bạch huyết.Nếu u bạch huyết dạng nang có kích thước lớn ở vùng cổ có thể gây khó nuốt, các rối loạn hô hấp và nhiễm trùng.

Các biến chứng sau khi phẫu thuật cắt bỏ nang bạch huyết có thể gặp là tổn thương các cấu trúc cơ quan vùng cổ, nhiễm trùng và bệnh tái phát.



Trần Hằng
.
.
.