Bất chấp COVID-19, 72% doanh nghiệp Đức vẫn tiếp tục đầu tư tại Việt Nam

Thứ Ba, 07/04/2020, 16:25
72% doanh nghiệp Đức tại Việt Nam vẫn tiếp tục kế hoạch đầu tư tại Việt Nam và 27% trong số họ sẽ tuyển thêm nhân sự. 


Theo Phòng Công nghiệp và Thương mại Đức tại Việt Nam, các doanh nghiệp Đức bày tỏ sự quan ngại về những tác động tiêu cực của dịch bệnh tới tình hình sản xuất và kinh doanh của họ tại Việt Nam nhưng vẫn kỳ vọng vào sự phục hồi kinh tế trong trung hạn của Việt Nam. Các chỉ số tại Việt Nam đều cao hơn hẳn mức trung bình của các chỉ số này tại Đông Nam Á. 

Đây là kết quả khảo sát AHK World Business Outlook 2020 về đánh giá niềm tin doanh nghiệp Đức và những tác động của dịch COVID-19 tới hoạt động sản xuất kinh doanh trên toàn cầu và tại Việt Nam được công bố ngày 7/4. 

Kết quả khảo sát nhấn mạnh, với tổng kim ngạch xuất nhập khẩu giữa hai nước đạt 14 tỷ Euro năm 2020, Việt Nam trở thành đối tác quan trọng nhất nhì trong khối các nước Đông Nam Á của Đức và cũng là quốc gia thu hút được sự quan tâm cao của các nhà đầu tư Đức, với hơn 350 dự án FDI tại Việt Nam. 

Đức hiện có hơn 350 dự án FDI tại Việt Nam.

Năm 2020 được dự đoán sẽ là một năm đầy thách thức với kinh tế toàn cầu, khi đại dịch COVID-19 trong những tuần gần đây tiếp tục lan rộng và khó dự đoán trên khắp các châu lục. 43% doanh nghiệp Đức cảm nhận được những ảnh hưởng mà dịch bệnh mang lại cho sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam, mặc dù Việt Nam có sự tăng trưởng ấn tượng và các thế mạnh hiện tại. 14% doanh nghiệp Đức dự tính kết quả hoạt động kinh doanh trong năm 2020 sẽ kém hơn năm ngoái. 59% trong số đó nhận định tình hình khả quan hơn, nhưng cũng chỉ đủ đạt mức chuẩn của 2019. Chỉ có 27% doanh nghiệp Đức lạc quan với sự phát triển kinh doanh của năm 2020 so với 2019 (chỉ số này đạt mức 77% vào năm 2019). 

Nhưng so sánh với các chỉ số trung bình được đánh giá bởi các doanh nghiệp và nhà đầu tư Đức tại Đông Nam Á, các chỉ số của Việt Nam đều cao hơn và cho thấy sự lạc quan của doanh nghiệp Đức vào tình hình phát triển của chính doanh nghiệp mình tại Việt Nam.

Cũng theo khảo sát, hầu hết các doanh nghiệp Đức tại Việt Nam đều cảm nhận và trải nghiệm những ảnh hưởng của dịch bệnh tới doanh nghiệp mình, ở các mức độ khác nhau và các góc độ khác nhau. 86% doanh nghiệp cho rằng việc tạm dừng xuất nhập cảnh, hạn chế đi lại ảnh hưởng lớn đển tình hình kinh doanh của họ. 59% người tham gia khảo sát cho rằng dịch bệnh đã làm gián đoạn các chuỗi cung ứng của họ. 55% doanh nghiệp Đức phải đối mặt với các đơn hàng bị hủy và 50% trong số họ buộc phải hoãn vô thời hạn các dự định đầu tư mới của mình do sự leo thang của dịch bệnh.

Tuy nhiên, 72% doanh nghiệp Đức tại Việt Nam vẫn tiếp tục kế hoạch đầu tư của họ tại đây và 27% trong số họ sẽ tuyển thêm nhân sự. Đây cũng là thành quả của những nỗ lực cải thiện môi trường đầu tư của chính phủ Việt Nam cũng như những tác động tích cực từ các hiệp định thương mại tự do mang lại, đặc biệt là hiệp định thương mại tự do giữa Châu Âu và Việt Nam (EVFTA). Hiệp định này được kỳ vọng sẽ là một đòn bẩy giúp nền kinh tế Việt Nam phục hồi và quay về mức tăng trưởng như hiện tại và thu hút thêm nhiều các nhà đầu tư chất lượng tới từ Châu Âu và Đức trong trung và dài hạn.


S.Thương
.
.
.