IS và những vụ hành hình man rợ

Thứ Bảy, 20/02/2016, 11:30
Trong một thành phố nguy hiểm như Fallujah, cách thủ đô Baghdad của Iraq chừng 65km về phía tây, Salem buộc phải làm một công việc tiềm ẩn nguy cơ cao - nghĩa là bất cứ lúc nào anh cũng có thể bị nhục hình và kinh tế gia đình rơi vào thảm họa.

Salem, 35 tuổi, không muốn tiết lộ tên thật và cho biết anh la lao động chính trong gia đình, phải làm việc tất bật để nuôi cha già. Vào lúc bọn cực đoan Tổ chức Nhà nước Hồi giáo tự xưng (IS) tiến vào kiểm soát Fallujah, Salem kiếm sống bằng nghề cắt tóc. Và, cũng chính nghề cắt tóc đã khiến anh bị bọn IS trừng phạt 80 roi.

Một cảnh hành hình bằng gươm của IS.

Trong 6 tháng đầu chiếm đóng Fallujah, bọn cực đoan IS có vẻ ôn hòa khi áp đặt những luật lệ Hồi giáo bởi vì chúng không muốn bị người dân xa lánh và một phần do chúng không hoàn toàn nắm giữ quyền lực ở thành phố này. Nhưng, chúng nghiêm khắc ngay từ đầu đối với công việc cắt tóc. Để râu là bắt buộc - nghĩa là không người đàn ông nào được phép cạo râu và cắt tóc vuốt keo theo người phương Tây bị cấm triệt để.

IS ra lệnh đóng cửa hầu hết những hiệu cắt tóc ở Fallujah, ngoại trừ của Salem bởi vì như anh nói "tiệm của tôi nghèo và đơn giản, không có biển hiệu quảng cáo cho nên bọn chúng không buộc đóng cửa". Nhưng, cho dù cửa tiệm còn được phép mở cửa song những giới hạn cực kỳ do IS quy định khiến cho Salem vẫn không kiếm đủ tiền để nuôi gia đình. Để tăng thu nhập, Salem bán rau ngoài chợ và chỉ cắt tóc khi có khách hay bạn bè và người thân gọi đến.

Bên trong Fallujah, "Vương quốc Hồi giáo" của IS.

Salem sống yên ổn cho đến ngày đám cưới của người cháu trai thì tai họa ập đến. Salem kể: "Cháu tôi đến tiệm yêu cầu không chỉ cắt tóc mà còn cạo râu". Salem thấy hoảng sợ trước đòi hỏi quá nguy hiểm như thế vì anh biết sự trừng phạt sẽ ra sao nếu vi phạm lệnh cấm cạo râu của IS. Người cháu muốn tóc được cắt ngắn theo kiểu hiện đại hơn là để tóc theo quy định của IS. Người cháu lập luận rằng “không ai để ý bởi vì lúc đó là buổi chiều và đường phố vắng tanh”. Miễn cưỡng, Salem làm theo ý của người cháu và còn vuốt thêm keo tóc.

Nhưng Salem và người cháu không ngờ rằng IS đang ngấm ngầm giám sát những hành động cắt tóc trái với quy định. Và 4 ngày sau đám cưới, Salem biết tin việc cắt tóc của anh đã bị một gián điệp của IS báo cáo đến chính quyền tôn giáo địa phương. Salem bị bắt giữ và hình phạt là 80 roi giữa nơi công cộng. Thêm vào đó, cửa hiệu của anh cũng bị đóng cửa. Tuy nhiên, Salem chỉ bị đánh 50 roi là ngất xỉu và phải đưa đến bệnh viện.

Có nhiều tội ác và lệnh cấm khác mà Salem còn chưa kể đến. Ví dụ, phụ nữ rời khỏi nhà mà không có một người thân là nam giới đi kèm sẽ bị chiến binh IS bắt đưa trở về nhà và người chồng phải bị trừng phạt 80 roi. Còn phải kể thêm những hình phạt khác - 80 roi cho tội uống rượu, bị chặt tay hay đóng đinh trên giá chữ thập đối với tội trộm cướp. Báng bổ Đấng tiên tri Mohammed: tử hình cho dù có ăn năn hối lỗi. Đồng tính: tử hình cho cả 2 người. Từ bỏ đạo Hồi: tử hình.

Những cuộc hành hình diễn ra hầu như hằng ngày trong Vương quốc Hồi giáo của IS - biện pháp nhằm chứng tỏ quyền lực và răn đe của tổ chức. Ví dụ, những cuộc hành hình ở thành phố Mosul bị IS chiếm đóng hồi năm 2014 diễn ra tại các quảng trường công cộng, trong công viên và ngay trên đường phố. Thông thường, tên đao phủ cùng với những kẻ trợ giúp và nạn nhân được di chuyển đến địa điểm bằng chiếc xe tải nhỏ. Đến nơi, nạn nhân sẽ bị lôi đến một chỗ rộng thoáng để mọi người dễ chứng kiến và quỳ gối. Trước khi tên đao phủ xuống gươm, tội lỗi của nạn nhân được xướng lên qua loa phóng thanh gắn trên chiếc xe.

Các thành viên lực lượng "cảnh sát đạo đức" của IS gọi là Hisbah thường xuyên tuần tra các đường phố để giám sát những cửa hiệu có tuân thủ lệnh đóng cửa vào thời gian cầu nguyện hay không, đàn ông có để râu hay không, phụ nữ có ăn mặc kín đáo hay không và họ có rời khỏi nhà với người đàn ông hay chồng đi kèm hay không. Chiến binh IS có mặt tại vô số những chốt gác trong khắp thành phố Mosul để kiểm tra điện thoại di động người qua đường, dò xét nội dung tin nhắn cũng như bất cứ thông tin cá nhân nào khác. Riêng đối với phụ nữ người Yazidi, họ chắc chắn bị coi là nô lệ tình dục cho chiến binh IS.

Thiên Minh (tổng hợp)
.
.
.