Tự diễn biến - tự chuyển hóa, hậu quả từ chiến lược diễn biến hòa bình chống CNXH

Thứ Sáu, 28/07/2017, 07:07
Thực tế cho thấy các chiến lược gia DBHB đã khôn khéo vận dụng mọi biện pháp, mọi thủ đoạn, với tất cả các loại vũ khí trên mặt trận tư tưởng (báo nói, báo hình, báo viết, mạng xã hội, tài liệu bất hợp pháp, kể cả gặp gỡ trực tiếp) để tác động nhằm biến đổi tư tưởng đối phương, tạo nên hiện tượng tự diễn biến, tự chuyển hóa, biến yêu thành ghét, biến những điều tưởng như thiêng liêng nhất đã ngấm vào máu xương, dẫn tới phai nhạt dần, để rồi xổ toẹt.


Kỳ cuối: Hậu quả khôn lường từ tự diễn biến, tự chuyển hóa

Ngày 3-6-2017, Nghị quyết số 11 – NQ/TW – Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã được ban hành. Sự kiện lịch sử trên khiến chúng ta nhớ tới một chuyện cách đây trên hai chục năm, cái thời mà cả nước tưng bừng phấn khởi trước thắng lợi bước đầu thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ sáu của Đảng với tinh thần “Đổi mới tư duy, thực hiện dân chủ hóa mọi mặt đời sống xã hội”. Đặc biệt là đổi mới tư duy kinh tế, chuyển từ cơ chế kinh tế kế hoạch sang cơ chế kinh tế thị trường, tạo nên những thành tựu không ngờ. Kinh tế phát triển, chính trị ổn định, an ninh quốc phòng được củng cố vững chắc, để rồi Việt Nam trở thành tiêu điểm nghiên cứu kết quả đổi mới.

Thành tựu đó trở thành cái gai trong mắt các thế lực thù địch. Bởi thế, họ đã gia tăng hoạt động DBHB trên lĩnh vực tư tưởng-văn hóa chống Việt Nam. Mục tiêu trọng điểm là xuyên tạc kết quả đổi mới; phủ định học thuyết Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; xuyên tạc thắng lợi cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại của nhân dân ta; kích động gây chia rẽ đoàn kết Bắc – Nam, đoàn kết dân tộc, tôn giáo; vu khống Việt Nam vi phạm dân chủ, nhân quyền… tăng cường phát tán vào Việt Nam nhiều sách báo, văn hóa phẩm, tài liệu xấu phục vụ cho mưu đồ nham hiểm trên. Việc làm của họ đã tác động tư tưởng một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và quần chúng. Thật xót xa, trong số đó có cả cán bộ, đảng viên thuộc diện lão thành cách mạng. Xin được dẫn chứng một số trường hợp sau:

Trường hợp thứ nhất: Có một vị tham gia cách mạng từ giữa thập niên 30 của thế kỷ trước. Vào thời điểm diễn ra sự việc được kể dưới đây, tuổi Đảng của ông còn hơn tuổi đời của tác giả bài viết này. Cũng vào thời điểm đó, ông là lãnh đạo trong cấp ủy Đảng ở một địa phương phía Nam.

Bởi ngấm cái đòn DBHB làm ông diễn biến tư tưởng để rồi dẫn tới tự chuyển hóa. Không ai có thể tưởng tượng được rằng một người như ông mà lại viết trên giấy trắng mực đen rằng: “Làm gì có DBHB. Đây là chuyện người ta tự đặt ra. Nếu có thì nó có từ bao giờ. Tại sao lại có DBHB. Nội dung ra sao…”.

Đâu phải chỉ dừng lại ở đó, nói về thành tựu công cuộc đổi mới, vị lão thành ấy phán bừa rằng: “Chẳng có gì đáng ca ngợi. Chút đỉnh kết quả đó chính là hồi chuông báo hiệu Việt Nam đã chuyển hướng, đi theo con đường tư bản chủ nghĩa. Bởi mô hình kinh tế XHCN là kinh tế kế hoạch. Nay đã chấp nhận kinh tế thị trường thì còn gì nữa, vì mô hình kinh tế thị trường là đặc trưng của chủ nghĩa tư bản”. Và chính ông đã viết: “Đến bây giờ, nghiệm ra rằng… chúng tôi đã chọn nhầm con đường tư tưởng”.

Có nhiều nguyên nhân để dẫn tới sự “tự diễn biến” của vị lão thành kia nhưng theo tôi có lẽ quan trọng nhất là sao nhãng việc nghiên cứu, học tập để nâng cao nhận thức về Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; về chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước; về mục tiêu lý tưởng độc lập dân tộc và CNXH; về tính ưu việt của CNXH và những hạn chế tất yếu trong quá trình phát triển; về thành tựu to lớn của công cuộc đổi mới và những khó khăn, hạn chế cần phải khắc phục…

Trường hợp thứ hai, tạm coi là thành công bước đầu của một tổ chức phản động có danh xưng là “Đảng nhân dân hành động” do Nguyễn Sĩ Bình là chủ tịch.

Nguyễn Sĩ Bình là một kỹ sư điện. Làm ăn, sinh sống tại Mỹ. Những năm cuối thập niên 80, đầu thập niên 90 của thế kỷ trước, biến động chính trị ở các nước Cộng sản Đông Âu và Liên Xô đã tác động tới Việt Nam. Lợi dụng tình hình đó, Nguyễn Sĩ Bình đã về Việt Nam với vai diễn thăm thân, du lịch nhằm thực hiện mưu đồ thu thập tình hình, tìm và xây dựng cơ sở để phát triển “đảng” trong nước. Bước đầu tập trung tại thành phố Hồ Chí Minh và một số tỉnh miền Tây Nam Bộ.

Với thời gian ngắn mà Bình đã xây dựng được hàng chục cơ sở (nói cho oách vậy chứ thực tình trong số đó hầu hết là những người trong gia đình, bạn cũ của Bình và một số ít người có tư tưởng chống phá Cách mạng). Năm 1992, Bình lại về nước và ngày 25-4-1992, cơ quan An ninh Bộ Công an đã bắt quả tang Nguyễn Sĩ Bình cùng một số “đảng viên” khi đang mở lớp huấn luyện tại một địa chỉ ở thành phố Hồ Chí Minh.

Trước cơ quan An ninh, Bình thành khẩn thừa nhận: “Tôi đã vi phạm pháp luật Việt Nam. Nếu được tha, tôi cam kết sẽ không có những hành động gây hại cho an ninh đất nước…”. Với chính sách nhân đạo của Nhà nước Việt Nam, vì hoạt động của Bình bị ta sớm ngăn chặn, chưa gây hậu quả nghiêm trọng, nên ngày 26-6-1993, Bình được khoan hồng, cho về Mỹ.

Nghiên cứu tài liệu thẩm vấn Nguyễn Sĩ Bình và tài liệu thu được, trong đó có danh sách “đảng viên” trong cái đảng của anh ta, cơ quan An ninh điều tra không khỏi giật mình bởi trong danh sách ấy có một số người là cán bộ trong cơ quan nhà nước ta, có cả người là trí thức, văn nghệ sĩ. Trong đó phải nhắc đến một cán bộ trí thức công tác tại Hà Nội, tham gia Cách mạng từ kháng chiến chống Pháp. Và thật không ngờ chỉ lần đầu gặp mà ông đã coi Nguyễn Sĩ Bình “là một nhà khoa học uyên thâm, hiểu sâu sắc nhiều lĩnh vực nên thuyết trình cuốn hút người nghe”...

Việc thứ ba, là bởi nhiễm phải nọc độc tuyên truyền của các thế lực thù địch và bọn phản động xuyên tạc bản chất các cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại của dân tộc ta, gần đây đã xuất hiện những ý kiến trái chiều của một số người, xung quanh cái gọi là “đánh giá lại” hoặc “nhận thức mới” về chiến tranh Việt Nam, đặc biệt là giai đoạn kháng chiến chống Mỹ (1954 - 1975).

Lịch sử hào hùng của 2 cuộc kháng chiến thần kỳ chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ đã được tổng kết đánh giá sâu sắc, toàn diện về bản chất những cuộc chiến tranh vệ quốc của nhân dân ta. Sao lại còn có “nhận thức mới” nào nữa. Có chăng là nhận thức mới thời hậu chiến, xử sự thời hậu chiến giữa ta (người chiến thắng) với đối phương (người thua trận). Thực ra, đây cũng là sự kế thừa truyền thống đạo đức của cha ông ta từ ngàn xưa “giặc thua rồi còn trải chiếu hoa cho họ về nước”.

Tỷ như quan hệ giữa Việt Nam với Hoa Kỳ, từ hai nước đối đầu nhau, bây giờ trở thành đối tác của nhau. Chẳng lẽ đó là nhận thức cũ! Với quân đội Sài Gòn và những người cộng tác với chế độ cũ, còn nhớ những ngày chuẩn bị kết thúc chiến dịch Hồ Chí Minh, hệ thống tuyên truyền chiến tranh tâm lý của địch ra rả luận điệu “Cộng sản chiếm miền Nam, chiếm Sài Gòn sẽ gây ra cảnh tắm máu”.

Luận điệu thâm độc ấy kích động tâm lý lo sợ mà hàng triệu người di tản. Có một vấn đề xử sự sau chiến tranh, ấy là một số người thuộc chế độ cũ được đưa đi tập trung cải tạo một thời gian, thiết nghĩ đó là sự cần thiết để bảo vệ họ tránh sự bột phát trả thủ của những gia đình nhiều người thân bị chế độ Sài Gòn tàn sát. Chẳng lẽ việc làm đó là nhận thức cũ!

Còn đối với những người rời Tổ quốc ra đi với nhiều lý do khác nhau, thực hiện chính sách hòa hợp dân tộc của Đảng và Nhà nước ta, đã có hàng vạn người về nước thăm thân, tham quan, du lịch, đầu tư xây dựng đất nước và không ít người hồi hương trở về sinh sống tại quê nhà. Song, có một thực tế rằng, trong số đó cũng có một số người đã và đang hoạt động gây nguy hại cho đất nước, nay trở về không vì những mục đích trên, mà họ trở về với rắp tâm hoạt động chống phá Việt Nam, vi phạm luật pháp Việt Nam, bị các cơ quan chức năng bắt, xử lý theo pháp luật hiện hành. Chẳng lẽ đó cũng là nhận thức cũ!

Từ tình hình nêu trên cho thấy tự diễn biến, tự chuyển hóa là cực kỳ nguy hiểm, mà nguyên nhân sâu xa của nó là sự “di căn” từ DBHB trên lĩnh vực tư tưởng cần cảnh giác.

Đấu tranh chống DBHB, phòng, chống tự diễn biến, tự chuyển hóa là nhiệm vụ cấp thiết hiện nay mà trọng tâm là phòng, chống ngay trong đội ngũ cán bộ, đảng viên.

Vì vậy, mỗi tổ chức Đảng, mỗi cán bộ, đảng viên cần nghiên cứu, quán triệt sâu sắc Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về củng cố và xây dựng Đảng. Đó là “toa thuốc” hiệu nghiệm nhất để phòng, chống tự diễn biến, tự chuyển hóa.

Khổng Minh Dụ
.
.
.