Phát hiện sớm ung thư vú, cơ hội sống vẫn cao

Thứ Tư, 26/04/2017, 16:43
Theo báo cáo mới nhất của Tổ chức Ghi nhận ung thư toàn cầu (Globocan) đưa ra tại hội thảo về ung thư  vú tổ chức tại Hà Nội ngày 26-4 với sự tham gia của nhiều chuyên gia Pháp và Việt Nam, ung thư vú là loại ung thư phổ biến nhất ở nữ giới Việt Nam và có tỷ lệ mắc mới cao nhất, ước tính 28,1/100.000 phụ nữ.


Ths. Nguyễn Minh Khánh, Khoa Ngoại vú (Bệnh viện K) cho biết số bệnh nhân mắc ung thư vú đang ngày càng gia tăng ở mức đáng lo ngại. Mỗi năm có khoảng 12.000 phụ nữ mắc mới ung thư vú. Một lo ngại nữa là ung thư vú ở Việt Nam xuất hiện khá nhiều ở lứa tuổi trung niên. 

Trong khi ở các nước châu Âu phụ nữ mắc ung thư vú chủ yếu từ 64 tuổi trở lên thì ở Việt Nam độ tuổi mắc nhiều nhất là 45-55, thậm chí còn rất trẻ. Riêng năm 2016, có khoảng 2.400 bệnh nhân điều trị ở Khoa Ngoại vú, trongđó, nhiều người trẻ tuổi và hầu hết trong đều xin cắt bỏ toàn bộ vú khi phát hiện có u.

Ths. Nguyễn Minh Khánh lưu ý: Phụ nữ Việt Nam có tâm lý e ngại nên không đi tầm soát ung thư vú sớm. Vì thế, khi  phát hiện thì đã muộn và phụ nữ dù đã có hay chưa vẫn luôn yêu cầu cắt bỏ toàn bộ tuyến vú. Trong khi đó, ở châu Âu, do chất lượng sống cao nên khi được tư vấn, họ sẽ truyền hóa chất cho nhỏ u mới tiến hành phẫu thuật cắt bỏ, để không làm ảnh hưởng tới toàn bộ vú.

Theo Ths. Nguyễn Minh Khánh, do tuyến vú người Việt Nam bé cho nên khi phát hiện khối u thường đã chiếm hết diện tích vú. Nhưng trừ khi đã ở giai đoạn muộn 3, 4, khối u to, di căn thì cần phải cắt bỏ vú, còn nếu phát hiện sớm (giai đoạn 1, 2) thì có thể bảo toàn vú bằng truyền hóa chất cho khối u nhỏ lại rồi mới phẫu thuật cắt rộng tuyến u và 1/3 tuyến vú. Tuy nhiên, những trường hợp này được chỉ định cho bệnh nhân phát hiện u ở giai đoạn sớm, u dưới 3cm và chưa di căn.

Đặc biệt với phụ nữ còn trẻ, nếu phát hiện sớm có thể bảo tồn tuyến vú và vẫn nuôi con hoàn toàn bằng sữa mẹ. Còn những phụ nữ đã cắt bỏ tuyến vú sẽ có nhiều kỹ thuật để tạo ngực thẩm mỹ như đặt túi silicon, hoặc dùng da bụng hay mỡ cơ bụng lên đắp ngực. Chi phí tạo hình này đang được Bệnh viện K thực hiện miễn phí, gia đình bệnh nhân chỉ mua túi để đặt vào tuyến ngực. Nhưng con số bệnh nhân muốn tạo hình ngực cũng không nhiều.

PGS. TS. Trần Văn Thuấn -Giám đốc Bệnh viện K cho biết y học Việt Nam và Bệnh viện K đã đạt được những thành tựu lớn trong chẩn đoán và điều trị bệnh ung thư. Nhiều tiến bộ mới nhất đã được áp dụng điều trị cho bệnh nhân ung thư vú Việt Nam.

Kỹ thuật sinh thiết bằng định vị kim dây thực hiện tại Bệnh viện K giúp chẩn đóan sớm các khối u chưa phát hiện được trên lâm sàng. Bệnh viện K còn áp dụng những kỹ thuật mới nhất để vừa chẩn đoán bệnh chính xác, vừa phân loại chi tiết các thể bệnh học giúp cho từng bệnh nhân có phương pháp điều trị thích hợp. 

Các kỹ thuật chụp cắt lớp đa dãy, chụp cộng hưởng từ với từ lực cao, chụp xạ hình, PET-CT giúp đánh giá giai đoạn bệnh, kết quả điều trị tốt hơn X-quang thường và siêu âm ổ bụng như trước. Việc sinh thiết các vị trí di căn ở sâu cũng có thể được thực hiện nhờ các phương pháp hiện đại hỗ trợ.

Phụ nữ nên tầm soát ung thư vú định kỳ để phát hiện bệnh sớm

Trong phẫu thuật, với các bệnh nhân ở giai đoạn sớm, khối u nhỏ đã được phẫu thuật bảo tồn thay vì cắt toàn bộ vú như trước. Những bệnh nhân có khối u lớn, không thể giữ được tuyến vú thì phẫu thuật tái tạo vú sẽ giúp bệnh nhân có tâm lý tự tin sau điều trị. Kỹ thuật phát hiện và sinh thiết hạch gác (hạch cửa) giúp tránh được vét hạch nách ở các trường hợp chưa di căn hạch, hạn chế được các biến chứng.

 Sau các ca mổ, khi phải xạ trị thì các kỹ thuật điều biến liều (IMRT) làm giảm thiểu tác dụng có hại của xạ trị đối với phổi, tim, xương sườn… Các máy xạ trị gia tốc năng lượng cao giúp giảm thời gian xạ trị, hạn chế các tác dụng phụ của xạ trị.

PGS. TS Trần Văn Thuấn cũng cho hay, giờ đây, các bệnh nhân ung thư vú có cơ hội sống lâu hơn bởi các thuốc điều trị phong phú: hóa chất, nội tiết, chống di căn xương mới nhất và hoạt tính chống u cao, tác dụng phụ thấp đều đã có tại Bệnh viện K. Đặc biệt, các thuốc điều trị đích, hạn chế ảnh hưởng đến tế bào lành đã được đưa vào điều trị. Các thuốc chống nôn, thuốc kích thích bạch cầu thế hệ mới hỗ trợ tích cực cho các phương pháp điều trị chính, giúp bệnh nhân vượt qua các tác dụng phụ.

Nhờ áp dụng những thành tựu mới trong chẩn đoán và điều trị, hiện nay nhiều bệnh nhân ung thư vú được phát hiện ở giai đoạn sớm với tỷ lệ sống trên 5 năm tới 85,6% so với tỷ lệ 67,7% những năm 1990 tại Bệnh viện K.

“Phụ nữ nên tầm soát ung thư vú định kỳ để phát hiện bệnh ở giai đoạn sớm, sẽ kéo dài thời gian sống. Nếu trong gia đình có người thân từng bị mắc ung thư vú, thì những phụ nữ trong gia đình nên đi tầm soát ung thư vú sớm”-Đây là lời khuyên của các chuyên gia tại hội thảo.



Thanh Hằng
.
.
.