Viết tiếp bài “Bản án Công ty năng lượng Nghệ An phải thanh toán hơn 53 tỷ đồng cho Tổng công ty 36, Bộ quốc phòng”:

Công ty 36 BQP bị chây ì thanh toán hơn 53 tỷ: Không thể trì hoãn thi hành án

Thứ Năm, 29/09/2016, 09:50
Chủ đầu tư công trình Thủy điện Nậm Mô (tại xã Tà Cạ, huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An) không chỉ chây ỳ thanh toán, mà còn có đơn thư gửi đi nhiều cơ quan chức năng, nội dung không đúng sự thật làm ảnh hưởng đến uy tín của Tổng Công ty 36, Bộ Quốc phòng, gây mất thời gian của các cơ quan pháp luật.


Ngày 27-9, Báo CAND đăng bài “Bản án Công ty năng lượng Nghệ An phải thanh toán hơn 53 tỷ đồng cho Tổng Công ty 36, Bộ quốc phòng: Cần sớm thi hành phán quyết của Tòa án”. 

Sau khi báo đăng, phóng viên Báo CAND tiếp tục tìm hiểu và được biết, chủ đầu tư công trình Thủy điện Nậm Mô (tại xã Tà Cạ, huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An) không chỉ chây ỳ thanh toán, mà còn có đơn thư gửi đi nhiều cơ quan chức năng, nội dung không đúng sự thật làm ảnh hưởng đến uy tín của Tổng Công ty 36, Bộ Quốc phòng, gây mất thời gian của các cơ quan pháp luật.

Chây ỳ thanh toán 

Có hai vấn đề chính mà Công ty năng lượng Nghệ An phản ánh tới các cơ quan chức năng. Thứ nhất là Tổng công ty 36 thi công công trình Thủy điện Nậm Mô chậm tiến độ, tính mỹ thuật công trình kém. Thứ hai là việc thanh quyết toán vật tư, sử dụng nhân công trình độ thấp. 

Đại tá Đoàn Minh Tuấn, Phó Tổng giám đốc Tổng Công ty 36 lý giải: “Việc thực hiện một trong hai hợp đồng thực tế hoàn thành chậm 7 tháng so với thỏa thuận. Tuy nhiên, ngày 22-5-2016, hai bên đã có cuộc họp xem xét giải quyết các vướng mắc, có việc phân tích nguyên nhân chủ quan, khách quan của chậm tiến độ. Cụ thể là nguyên nhân chậm tiến độ do khách quan là 211 ngày (trong đó có lỗi của chủ đầu tư), còn lỗi do nhà thầu thì chỉ có 2 ngày”.

Thủy điện Nậm Mô đã hoạt động thu lời khoảng 3 năm nay nhưng còn nợ nhà thầu hơn 53 tỷ đồng.

Về vấn đề thanh quyết toán hợp đồng, phía Công ty năng lượng Nghệ An đưa ra yêu cầu là phải áp dụng mức lương tối thiểu chung để tính chi phí nhân công theo Nghị định 112/2009/NĐ-CP. Đối tượng áp dụng của nghị định này là “các tổ chức, cá nhân liên quan đến việc quản lý chi phí đầu tư xây dựng công trình tại các dự án sử dụng 30% vốn Nhà nước trở lên”. 

Trong khi đó, theo Đại tá Đoàn Minh Tuấn, Công ty năng lượng Nghệ An là công ty cổ phần và công trình Thủy điện Nậm Mô không sử dụng vốn Nhà nước.

Do nhà thầu và chủ đầu tư đã có nhiều cuộc họp để giải quyết việc thanh quyết toán không đạt kết quả nên ngày 15-9-2015, hai bên thống nhất làm văn bản gửi lên Viện Kinh tế (Bộ Xây dựng) đề nghị hướng dẫn về việc điều chỉnh giá nhân công cho công trình Thủy điện Nậm Mô.

Ngày 9-10-2015, Bộ Xây dựng có Văn bản số 2353/BXD-KTXD trả lời đề nghị của Tổng Công ty 36 hướng dẫn điều chỉnh tiền lương nhân công công trình Thủy điện Nậm Mô. Văn bản này khẳng định: “Tổng Công ty 36, Bộ Quốc phòng thanh toán, quyết toán hợp đồng theo quy định và đảm bảo nguyên tắc phù hợp với hợp đồng đã ký kết, không trái hồ sơ mời thầu và các quy định liên quan đến pháp luật về đầu tư xây dựng công trình”.

Trong phiên xét xử phúc thẩm ngày 12-9-2016, TAND tỉnh Nghệ An xác định tranh chấp trong vụ án liên quan đến hợp đồng xây dựng này chủ yếu là việc áp dụng văn bản pháp luật nào để làm căn cứ tính bù giá lương nhân công giải quyết vướng mắc của hai bên. 

Bên cạnh các căn cứ của pháp luật về áp dụng mức lương nhân công, TAND tỉnh Nghệ An còn căn cứ vào cam kết thỏa thuận của hai bên trong hợp đồng và các thỏa thuận đã lập để giải quyết tranh chấp; buộc Công ty năng lượng Nghệ An phải thanh toán số tiền còn lại và phạt lãi chậm thanh toán cho Tổng Công ty 36 tổng số hơn 53 tỷ đồng.

Không thể trì hoãn thêm

Qua tìm hiểu của chúng tôi, ban đầu việc hợp tác làm ăn giữa hai doanh nghiệp rất tốt đẹp, nhưng khi phát sinh mâu thuẫn liên quan đến quyền lợi, Công ty cổ phần Tổng Công ty phát triển năng lượng Nghệ An (Công ty năng lượng Nghệ An) đã gửi đơn đến nhiều cơ quan chức năng, trong đó có gửi Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Sau khi có phản ánh của Công ty năng lượng Nghệ An, Đại tướng Ngô Xuân Lịch, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đã giao Cục Điều tra hình sự (ĐTHS - Bộ Quốc phòng) nghiên cứu, xác minh.

Thiếu tướng Nguyễn Văn Thi, Cục trưởng Cục ĐTHS (Bộ Quốc phòng) đã có báo cáo gửi lãnh đạo Bộ Quốc phòng với nội dung: 

“Qua nghiên cứu các tài liệu có liên quan và làm việc trực tiếp với ông Nguyễn Tám, Tổng Giám đốc điều hành Công ty năng lượng Nghệ An đã xác định: Những nội dung mà Công ty năng lượng Nghệ An nêu trong văn bản gửi Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đều đã có biên bản nghiệm thu, biên bản xác nhận hết thời gian bảo hành. 

Mục đích của Công ty năng lượng Nghệ An là báo cáo, phản ánh những việc làm của Tổng Công ty 36, không có ý định tố cáo hoặc đề nghị gì. Cơ quan điều tra đã nhắc nhở, quán triệt đối với Công ty năng lượng Nghệ An để Công ty năng lượng Nghệ An rút kinh nghiệm, không phản ánh những nội dung kiến nghị chưa đủ căn cứ gửi Thủ trưởng Bộ Quốc phòng và cơ quan có thẩm quyền”.

Tại Văn bản số 737/ĐTHS-P1 ngày 27-7-2016 do Thiếu tướng Phạm Văn Thi ký khẳng định: “Việc giải quyết tranh chấp giữa Tổng Công ty 36 và Công ty năng lượng Nghệ An về thanh quyết toán trong hợp đồng xây dựng công trình Thủy điện Nậm Mô thuộc thẩm quyền của TAND tỉnh Nghệ An. Công ty năng lượng Nghệ An đã cam kết chấp hành trình tự giải quyết tranh chấp của Tòa án cấp phúc thẩm, không tiến hành khiếu kiện đến bất kỳ cơ quan nào khác”.

Đến nay, các cơ quan chức năng đã làm rõ những phản ánh của Công ty năng lượng Nghệ An về quá trình thi công, thanh quyết toán công trình. Bản án phúc thẩm đã có hiệu lực pháp luật, phán quyết của TAND hai cấp đã bảo vệ quyền lợi chính đáng cho nhà thầu thi công và người lao động. 

Đề nghị cơ quan thi hành án dân sự sớm tiến hành các biện pháp thi hành án để đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật. Và đặc biệt, Công ty năng lượng Nghệ An đã cam kết chấp hành trình tự giải quyết của tòa án cấp phúc thẩm theo Báo cáo của Cục ĐTHS Bộ Quốc phòng số 737/ĐTHS-P1 thì không có lý do gì để trì hoãn thi hành án.

Điều 36, Luật Thi hành án dân sự sửa đổi năm 2014 quy định: Trong thời hạn 5 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được bản án và có yêu cầu thi hành án, Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự phải ra quyết định thi hành án.
Điều 36, Luật Thi hành án dân sự sửa đổi năm 2014 quy định: Trong thời hạn 5 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được bản án và có yêu cầu thi hành án, Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự phải ra quyết định thi hành án.
Minh Phương
.
.
.