Câu hỏi còn để ngỏ về đại dịch COVID-19

Thứ Bảy, 19/02/2022, 09:19

Nguy cơ xuất hiện các biến thể mới đồng nghĩa với việc thời điểm khi nào đại dịch kết thúc vẫn là câu hỏi còn để ngỏ, điều đó buộc tất cả các nước phải có cách tiếp cận thận trọng khi dỡ bỏ, nới lỏng các quy định phòng, chống dịch hay mở cửa trở lại.

Giãn cách xã hội, tự cách ly, đeo khẩu trang, xét nghiệm và truy tìm tiếp xúc là các biện pháp cơ bản được Tổ chức Y tế thế giới (WHO) khuyến nghị kể từ khi bắt đầu đại dịch. Tuy nhiên, sau hai năm, khi mức độ miễn dịch cộng đồng và tỷ lệ tiêm chủng cao, nhiều nước đang có kế hoạch dỡ bỏ ngay cả các biện pháp cơ bản này. Tại Mỹ, các bang lớn, gồm New York và California, bỏ quy định đeo khẩu trang ở không gian công cộng trong nhà. Tương tự, Thụy Sĩ cũng đã bỏ quy định làm việc tại nhà và truy vết tiếp xúc, đồng thời dự kiến ngừng sử dụng hộ chiếu vaccine.

Trong khi đó, tại Anh, vùng England dự kiến sẽ kết thúc mọi biện pháp hạn chế phòng dịch COVID-19 vào cuối tháng 2. Bỉ hạ mức cảnh báo phòng, chống dịch, Italy và Tây Ban Nha không còn yêu cầu người dân đeo khẩu trang ngoài trời. Giáo sư dịch tễ học bệnh truyền nhiễm tại Trường Vệ sinh dịch tễ và Y học nhiệt đới London (Anh), David Heymann, cho biết: “Không có tiêu chí thực sự nào cho sự kết thúc của đại dịch, nhưng có lẽ có thể cảm thấy điều này”. Theo ông, những thay đổi về chính sách của các chính phủ là bằng chứng cho thấy các quốc gia đang chuyển từ “cách tiếp cận pháp lý có hiệu lực từ trên xuống” sang “chương trình kiểm soát bệnh dịch” tương tự như chương trình chống bệnh cúm mùa.

Trong khi đó, Giáo sư y tế toàn cầu tại Đại học Washington (Mỹ), ông Ali Mokdad, cho rằng đại dịch đang bước vào giai đoạn trong đó mọi người tự cân nhắc rủi ro cá nhân thay vì được yêu cầu phải làm gì. Chuyên gia này đồng ý rằng mọi người đang bình thường hóa cuộc sống, và câu hỏi giờ đây không còn là liệu các quốc gia sẽ dỡ bỏ mọi hạn chế phòng dịch hay không, mà là khi nào?

Một dấu hiệu khác cho thấy sự tự tin đã trở lại, là tỷ lệ đặt vé máy bay cho mùa hè này đã quay lại mức trước đại dịch sau khi các yêu cầu xét nghiệm đối với du khách được nới lỏng. Theo hãng điều hành du lịch lớn nhất châu Âu TUI Group, tính đến ngày 30/1, khoảng 3,5 triệu khách đã đặt vé cho các chuyến bay vào mùa hè, tương đương 75% mức của năm 2019. Thực tế cho thấy, từ cuối tháng 1 năm nay, số ca mắc mới COVID-19 trên toàn cầu có xu hướng giảm.

Trong tuần kết thúc ngày 13/2, số ca mắc mới đã giảm 18% so với tuần trước đó. Nếu trung bình tuần đầu tiên của tháng hai, mỗi ngày thế giới ghi nhận khoảng 2,3 triệu ca mắc mới thì trong tuần tiếp theo, con số này là 1,5 triệu ca. Quan trọng hơn, dù số ca mắc COVID-19 vào mùa đông năm nay vượt ngưỡng các kỷ lục trước đó, chưa có dấu hiệu gia tăng các ca bệnh nặng. Giới khoa học chỉ rõ tỷ lệ người được tiêm phòng ngày càng tăng là yếu tố khiến tỷ lệ bệnh nhân trở nặng giảm.

Tuy nhiên, nhiều chuyên gia vẫn giữ quan điểm việc dỡ bỏ hay nới lỏng các hạn chế không có nghĩa là đại dịch đã chấm dứt. Giáo sư y khoa tại Đại học Stanford (Mỹ) Kevin Schulman nhận định, việc loại bỏ các hạn chế nên đi kèm với tuyên bố “thế giới vẫn chưa thoát khỏi đại dịch”. Ông cho rằng, quan điểm “đại dịch đã được giải quyết” không phải là thông điệp phù hợp, nhấn mạnh rằng thế giới đã hy sinh rất nhiều, và giờ đây cần bảo vệ những thành quả đã đạt được. Bất chấp những thay đổi về quy định phòng dịch của nhiều nước, một loạt chuyên gia nhất trí rằng nguy cơ xuất hiện các biến thể mới khiến các chính phủ không bao giờ có thể kết luận sẽ không còn phải áp dụng các biện pháp hạn chế mới.

7-4.jpg -0
Hành khách đeo khẩu trang phòng dịch COVID-19 tại sân bay quốc tế Ngurah Rai ở Bali, Indonesia, ngày 16/2. Ảnh: Tân Hoa Xã.

Giáo sư dịch tễ học bệnh truyền nhiễm tại Đại học Edinburgh (Scotland), Mark Woolhouse, đánh giá: “Câu hỏi liệu chúng ta có phải tái áp dụng các hạn chế hay không sẽ được đặt ra, bởi tôi chắc chắn rằng sẽ có những biến thể khác”. Đồng quan điểm trên, Giáo sư dịch tễ học di truyền tại Đại học Kings College London (Anh) Tim Spector nêu rõ: “Đây có thể là lần cuối cùng chúng ta đưa ra các quy định pháp lý, nhưng điều này không có nghĩa là đại dịch đã kết thúc”. Ông cũng lưu ý: “Virus luôn đi trước chúng ta một bước, và sẽ thật dại dột nếu bỏ qua điều đó”.

Ngay tại những nước đã dỡ bỏ các hạn chế, giới chuyên gia cũng khuyến cáo nên thận trọng. Chuyên gia Fredrik Elgh, giáo sư về virus tại Đại học Umea, khẳng định đại dịch vẫn gây sức ép lớn đối với xã hội, vì vậy, ông kêu gọi cần “kiên nhẫn” và duy trì chiến lược xét nghiệm. Bà Soumya Swaminathan, Trưởng nhóm khoa học của WHO cũng nhận định đại dịch COVID-19 hoành hành thế giới hơn 2 năm qua vẫn chưa thể kết thúc do có thể sẽ có thêm biến thể của virus SARS-CoV-2 gây bệnh.

Chuyên gia này nhấn mạnh: “Chúng ta chứng kiến virus tiến hóa, đột biến... chúng ta biết sẽ có thêm biến thể và thêm biến thể gây quan ngại, chúng ta chưa ở thời điểm đại dịch kết thúc”. Nguy cơ xuất hiện các biến thể mới đồng nghĩa với việc thời điểm khi nào đại dịch kết thúc vẫn là câu hỏi còn để ngỏ, điều đó buộc tất cả các nước phải có cách tiếp cận thận trọng khi dỡ bỏ, nới lỏng các quy định phòng, chống dịch hay mở cửa trở lại.

Biến thể tàng hình của Omicron có thể gây bệnh nặng hơn chủng Delta

Một nghiên cứu mới chỉ ra rằng, BA.2, biến thể tàng hình của Omicron, không chỉ lây lan nhanh hơn mà còn gây bệnh nặng hơn các chủng trước đó của virus SARS-CoV-2, bao gồm cả Delta. Theo đó, giống như phiên bản gốc của Omicron, biến thể BA.2 dường như có khả năng vượt qua rào chắn miễn dịch do vaccine tạo ra. BA.2 cũng có khả năng kháng một số phương pháp điều trị, bao gồm sotrovimab, kháng thể đơn dòng hiện đang được sử dụng để điều trị cho bệnh nhân nhiễm Omicron.

Một nghiên cứu của các nhà khoa học Nhật Bản cho thấy BA.2 có thể tự sao chép trong tế bào nhanh hơn BA.1, phiên bản gốc của Omicron. Nó cũng nổi trội hơn trong việc liên kết các tế bào dính lại với nhau. Điều này cho phép BA.2 tạo ra các khối tế bào lớn hơn BA.1, được gọi là hợp bào. Điều đó rất đáng lo ngại vì những khối tế bào này sau đó sẽ trở thành “nhà máy” tạo ra nhiều bản sao virus hơn. Delta cũng có khả năng tạo ra hợp bào rất hiệu quả. Giới chuyên gia cho rằng đây là một lý do khiến biến thể này tàn phá phổi nghiêm trọng.

Tiến sĩ Daniel Rhoads, Trưởng bộ phận vi sinh tại Phòng khám Cleveland ở Ohio, cho biết: “Dựa trên nghiên cứu mới có thể thấy BA.2 là một biến thể nguy hiểm hơn, lây lan nhanh hơn và gây ra triệu chứng nặng hơn so với BA.1”. Trong khi đó, chuyên gia Kei Sato, nhà nghiên cứu tại Đại học Tokyo, người đã thực hiện nghiên cứu, lập luận rằng những phát hiện này cho thấy rằng BA.2 không nên được coi là một nhánh của Omicron và cần được giám sát chặt chẽ hơn. Bà giải thích BA.2 được gọi là biến thể tàng hình của Omicron vì nó không thể phát hiện trong các xét nghiệm PCR thông thường. Do đó, các phòng thí nghiệm cần thực hiện bước bổ sung và giải trình tự gien để tìm ra biến thể này.

Tương tự như biến thể gốc Omicron, BA.2 có khả năng phá vỡ các kháng thể trong máu của những người đã tiêm vaccine COVID-19. Nó cũng có khả năng chống lại kháng thể của những người đã từng mắc COVID-19 trước đó, bao gồm cả chủng Alpha và Delta. BA.2 gần như kháng hoàn toàn với một số phương pháp điều trị bằng kháng thể đơn dòng.

Nhưng có một tín hiệu tích cực, đó là trong máu của những người nhiễm biến thể Omicron dường như cũng có một số kháng thể bảo vệ chống lại BA.2, đặc biệt nếu họ đã được tiêm chủng. Điều đó cho thấy dù BA.2 có vẻ dễ lây lan và gây bệnh nặng hơn chủng gốc Omicron, nhưng nó có thể không gây ra một làn sóng lây nhiễm COVID-19 tàn khốc hơn.

Minh Hải (tổng hợp)
.
.
.