Đại tá tình báo Tư Cang: Người suốt đời bảo vệ Phạm Xuân Ẩn

Thứ Sáu, 28/04/2017, 13:40
Cụm tình báo H63 đã đưa tên tuổi nhà tình báo Phạm Xuân Ẩn trở thành một trong những điệp viên xuất sắc nhất mọi thời đại. 

Với sự giúp đỡ, bảo vệ, che chắn của cụm trưởng Tư Cang và các anh em giao thông liên lạc đã sẵn sàng hi sinh chứ không chịu tiết lộ bí mật của điệp viên, Phạm Xuân Ẩn đã trở thành một “điệp viên hoàn hảo” đến giây phút cuối cùng của cuộc chiến, trở thành Thiếu tướng - Anh hùng LLVTND - nhà tình báo xuất sắc nhất của ngành tình báo Việt Nam.

Đại tá Nguyễn Văn Tàu (biệt danh Tư Cang) - cụm trưởng cụm H63 Anh hùng cũng được phong tặng danh hiệu Anh hùng LLVTND. Họ là hai người đồng chí đã sát cánh bên nhau trong những lúc gian nan, ngặt nghèo nhất.

Hồ sơ về nhà tình báo Tư Cang trong bộ tổng tham mưu ngụy và sự cảnh giác không thừa của người cụm trưởng cụm H63

Đại tá tình báo Tư Cang nhận nhiệm vụ làm cụm trưởng cụm tình báo H63 từ năm 1962, là mạng lưới tình báo hậu thuẫn cho hoạt động của điệp viên Phạm Xuân Ẩn.

Trước đó, H63 tên là A18: “Cụm A18 là một cụm đặc biệt quan trọng, với điệp viên quan trọng nhất là Phạm Xuân Ẩn. Nên chúng tôi làm việc với tinh thần bảo vệ Phạm Xuân Ẩn tuyệt đối. Việc đổi tên cụm cũng là một cách để “cắt đuôi” những kẻ theo dõi, nghi ngờ hoạt động của cụm, vì chắc chắn trong những năm đó, tình báo địch chắc hẳn đã hơn 1 lần tỏa đi tìm thông tin về A18” - ông Tư Cang nhớ lại.

Đại tá tình báo Tư Cang.

Kể từ khi làm cụm trưởng cụm tình báo H63 - A18, ý thức được tầm quan trọng của cụm và việc giữ an toàn cho Phạm Xuân Ẩn, nên cụm trưởng Tư Cang đã hy sinh rất nhiều, những hy sinh thầm lặng mà suốt nhiều năm trời, đồng đội của ông trong cụm H63 - A18 hầu như không ai biết.

Năm 1954, khi Tư Cang ra miền Bắc tập kết, ông chưa từng một lần gặp con gái. Vợ ông gửi một tấm hình con gái, ông mới biết con gái mình mặt mũi ra sao. Tấm hình đó ông nâng niu, giữ gìn đến nỗi, có lần bị địch càn, phải bơi qua sông, ông ôm theo bọc vải chứa hình con gái, một tay bơi, một tay giơ bọc vải lên cao, vì sợ hỏng mất hình con.

Đến năm 1962, khi trở về miền Nam, ông gọi vợ con ra chiến khu, gặp nhau trong chốc lát rồi tiếp tục lên đường làm nhiệm vụ. Kể từ đó đến năm 1975, ông không có dịp về nhà gặp con gái mình.

Ngày đó, vợ ông làm việc cho một ngân hàng và sống ngay trong thành phố. Con gái ông cùng mẹ ở đó. Biết vợ con ở ngay trong thành, biết cả con ngõ nhỏ vào nhà, nhưng mỗi lần đi qua cư xá nơi vợ con đang sống, bao giờ ông cũng phải cố nhấn ga đi cho thật nhanh.

Có những lần cái đầu, cái tay ông điều khiển xe đi thẳng, nhưng trái tim ông thì cứ thôi thúc rẽ vào con ngõ ấy, để được về với vợ, với con trong chốc lát. Nhưng cuối cùng, cái đầu tỉnh táo của một nhà tình báo đã chiến thắng. Ông lái xe đi qua ngôi nhà đó bao nhiêu lần trong suốt 13 năm, chính ông cũng không nhớ. Nhưng ông chưa một lần rẽ vào.

Mà lý do cho việc tự khắt khe với chính mình thì chỉ có một nhà tình báo như ông mới hiểu: “Những tài liệu mà Phạm Xuân Ẩn mang về đều là những tài liệu có tầm chiến lược, có những thông tin ảnh hưởng lớn đến cuộc chiến của ta với Mỹ - ngụy tại miền Nam. 

Là người cụm trưởng, tôi hiểu tầm quan trọng của Phạm Xuân Ẩn như thế nào, nên việc bảo vệ sự an toàn cho Phạm Xuân Ẩn, với tôi cũng quan trọng như thế. Tôi luôn nghĩ như thế này: Vợ tôi sống với con gái, trước giờ chẳng ai biết bà ấy có chồng. Nếu tôi về thăm nhà, người ta để ý, bọn mật thám địch nó để ý, rủi nó bám theo thì tôi lộ. Tôi chết đã đành, nhưng Phạm Xuân Ẩn cũng hỏng.

Lưới tình báo H63 mà ông Mười Hương đã kỳ công gây dựng bằng việc bắt đầu cử Phạm Xuân Ẩn sang Mỹ học, coi như cũng đổ xuống sông xuống biển. Khi đó, tổ chức hỏi đến tôi, tôi làm sao gánh nổi trách nhiệm đó với tổ chức, với nhân dân, đất nước”.

Đại tá tình báo Tư Cang trong lễ trao tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân năm 2006.

Và đó chính là lý do khiến 13 năm liền, từ 1962 đến ngày giải phóng năm 1975, Đại tá Tư Cang chưa bao giờ bước chân về nhà, kể cả ngày con gái ông lấy chồng hay ngày con gái ông sinh cho ông một đứa cháu ngoại. Có đôi lúc, chính Tư Cang cũng nghĩ rằng ông đã khắt khe với chính mình. Nhưng sự cẩn trọng của một nhà tình báo không cho phép ông vượt qua giới hạn đó. Và thực tế sau này đã chứng minh, sự cẩn trọng của ông là hoàn toàn chính xác.

Ngày 30 tháng 4 năm 1975, Đại tá tình báo Tư Cang, khi đó là chính ủy lữ đoàn đặc công, có nhiệm vụ tấn công vào cơ quan bộ tổng tham mưu địch. Khi chiếm được cơ quan này, Tư Cang phát hiện một danh sách các cán bộ Cộng sản quan trọng mà Mỹ - ngụy cất công điều tra, theo dõi. Chúng dán lý lịch của mỗi người trên một cái bảng nhỏ, treo trên tường, trong một căn phòng tối mật.

Trên một tấm bảng có ghi: “Tư Cang, Phó Chính ủy tình báo Miền, người trắng trắng, cao cao, có đặc điểm bắn súng bằng hai tay rất giỏi, yêu thích văn nghệ. Quê quán: Chưa xác định. Gia đình: chưa xác định”.

Trên bảng lưu hồ sơ về Tư Cang, bức ảnh của ông là một khoảng trống. Tất cả những thông tin mà địch biết về ông, chỉ có thế. Đến lúc đó, Tư Cang thực sự biết rằng việc ông ko về thăm nhà là một quyết định chưa bao giờ sai lầm.

Hẳn là qua thông tin khai thác được từ những kẻ chiêu hồi trong những năm đó, Mỹ - ngụy đã nắm được thông tin về nhà tình báo Tư Cang và vai trò quan trọng của ông, đặc biệt là sau này, khi ông trở thành Phó Chính ủy Phòng Tình báo Miền. Nếu bắt được Tư Cang, đó sẽ là một “món hời”, một chiến công lớn mà tình báo Mỹ - ngụy lập được.

Chúng đã điên cuồng cho người đi tìm thông tin về Tư Cang. Nhưng tất cả những gì chúng biết về Tư Cang chỉ là mấy dòng vỏn vẹn đó. Không một tấm hình nào của ông, không một thông tin gì về vợ con, quê quán của ông bị lọt vào tay chúng.

Nguyên tắc bí mật đó, ông giữ gìn cả với những người đồng chí của mình. Ngày đó vào thành hoạt động, Tư Cang sống trong nhà cô Tám Thảo. Cô Tám Thảo cũng là một thành viên quan trọng trong cụm tình báo H63. Gia đình Tám Thảo là tư sản giàu có, chị em cô đều xinh đẹp và được ăn học đầy đủ. Nhưng gia đình họ yêu cách mạng. Cô Tám Thảo cũng không biết về vợ Tư Cang.

Để giữ liên lạc thông tin với Tư Cang ở trong thành, tổ chức yêu cầu ông chọn một người thật sự tin tưởng. Tư Cang đã chọn vợ mình, vì biết không ai có thể giữ gìn sự an toàn của ông hơn bà. 

Mỗi khi ngoài khu có thư vào, hay có thông tin liên lạc gấp với ông, họ sẽ qua vợ ông. Vợ ông lại đi bắt liên lạc với ông. Bà trở thành một mắt xích trong cụm tình báo H63 - A18. Nhưng cô Tám Thảo cũng chỉ biết bà là liên lạc của Tư Cang. Những đồng đội khác của ông cũng thế.

Có lần vợ ông mang thư đến nhà cô Tám Thảo đưa cho ông. Tư Cang đang mặc bộ quần áo pijama, ngồi trong căn phòng sáng đèn ne-on, dạy tiếng Anh cho chị em Tám Thảo. Cô Tám Thảo ra cổng lấy thư của vợ ông đưa, mang vào bảo ông: Có bà đầu búi tóc đưa cái này cho anh - ngày đó vợ ông hay búi tóc sau đầu, nên Tám Thảo gọi như thế.

Tư Cang ở trong nhà, nhìn thấy vợ mình, mặt không biểu lộ bất cứ cảm xúc nào. Vợ ông ở ngoài cổng nhìn vào, thấy chồng, ánh mắt vẫn không thay đổi. Cả hai ông bà cùng nén lại những nỗi niềm thương nhớ để bảo vệ sự an toàn của Tư Cang nói riêng và cụm tình báo H63 nói chung.

Các cựu chiến binh cụm tình báo H63.

Tiết lộ về lần “run chân” duy nhất trong đời nhà tình báo Phạm Xuân Ẩn

Ở tuổi 84, Anh hùng LLVTND - Đại tá tình báo Tư Cang là thương binh hạng 2/4 với thương tật là 62%. Có lần đi khám, bác sĩ thông báo ông bị hỏng bán cầu não bên phải, chỉ còn bán cầu não trái hoạt động. Ông nghe vậy, giỡn lại: “Hư bên phải, tôi xài bên trái là đủ rồi”.

Ông rất lạc quan vào cuộc sống của mình, bởi với ông, việc còn sống đến giờ phút này đã là một điều may mắn. Trong những năm kháng chiến chống Mỹ, cụm tình báo H63 có tất cả 45 người, trong đó có 27 người hi sinh. Những người còn lại, ai cũng bị thương. Tư Cang luôn tin rằng thần chết đã chối từ ông, rất nhiều lần trong những năm chiến tranh đó.

Phụ trách cụm tình báo H63, Tư Cang vừa phải giữ liên lạc và chỉ đạo sát sao các điệp viên trong thành, vừa phải quán xuyến vấn đề giao thông liên lạc. Có thể hình dung như thế này: cụm tình báo H63 được chia làm 3 bộ phận, một bộ phận là điệp viên ở luôn trong thành, một bộ phận giao thông liên lạc đi đi về về giữa thành phố và căn cứ, và một khu vực đặt điện đài vô tuyến, ngay trong một căn hầm ở địa đạo Củ Chi.

Cụm trưởng Tư Cang là người phải đi lại nhiều nhất giữa ba nơi đó. Cứ mỗi khi có lệnh của cấp trên, ông lại về chiến khu nghe phổ biến nhiệm vụ, sau đó lần lượt về từng nơi, phổ biến lại nghị quyết cho anh em. Khi trạm điện đài vô tuyến ngoài địa đạo có việc cần, ông lại mặc bộ quần áo thầy chú (lối ăn vận như công chức ngày nay) lái Honda ra ngoài thành, thay quần áo, rồi đi tìm hầm địa đạo.

Có lần khi ông vừa ra đến nơi thì căn cứ bị lộ, địch càn. Xe tăng và trực thăng địch vây xung quanh. Anh em trong cụm mỗi người chạy một ngả. Bữa đó trực thăng và xe tăng địch bám riết Tư Cang. Một hàng xe tăng chạy theo Tư Cang, bắn tới tấp. Hôm đó chúng không bắn đạn thật mà bắn đạn đinh, với mục đích bắt sống Tư Cang. Nhưng do được huấn luyện về cách chạy, ông cứ chạy qua chạy lại giữa mấy làn đạn mà may mắn không bị trúng phát nào.

Bữa đó anh em trong cụm đinh ninh rằng ông bị bắt sống. Nhưng đến khi nhìn thấy ông, tất cả đều sững sờ. Ông kể trong lúc chạy, ông may mắn được một đồng chí hỗ trợ, nhanh chóng đưa ông xuống căn hầm khác ở địa đạo và thoát chết.

Một lần khác, Tư Cang và một cậu giao thông dẫn đường vừa từ trong ấp chiến lược về, đến lúc bắt đầu ra vùng căn cứ thì thấy xe tăng địch xếp thành hàng chĩa nòng bắn bom vào mình. Ông và cậu giao thông dẫn đường quay đầu co giò chạy. Tiếng súng bắn bom vang lên. Thường thì trong trường hợp đó, với kinh nghiệm của Tư Cang, ông biết mình và cậu liên lạc sẽ khó sống sót. Nhưng lạ thay chẳng có miểng bom nào bắn về phía ông.

Đến lúc chạy vào nhà cơ sở, họ mới kể, bữa đó tụi địch lắp súng bắn bom, nhưng vì sơ suất hay vì có ai đó trong hàng ngũ địch là tay trong của ta cố tình cài bẫy, mà tất cả các máy bắn bom của địch đều bị lắp chốt ngược, nên bom bắn ra, bắn dội lại cả về phía chúng. Địch chết hàng trăm tên hôm đó, không phải do ai tấn công mà tự chúng gây ra cho chính mình. Đó cũng là một lần thoát chết hi hữu của Đại tá tình báo Tư Cang.

Cuộc đời Tư Cang đã trải qua những lần chết hụt như thế nhưng lần nguy hiểm nhất, mà cũng là lần khiến ông nhớ đời nhất, chính là lần khi ông và nhà tình báo Phạm Xuân Ẩn được giao một nhiệm vụ khẩn: “Một hôm chúng tôi nhận được lệnh của tổ chức, yêu cầu chuyển bức thư đến một nhân vật chóp bu trong giới chức ở Sài Gòn.

Nhân vật này là một người nước ngoài, là tình báo của một nước bạn có quan hệ rất tốt với cách mạng ta được cài cắm vào Sài Gòn mà đến giờ chúng ta chưa được phép công bố. Sau nhiều năm cho điệp viên này lọt vào chính quyền Mỹ - ngụy ở Sài Gòn, nước bạn nhận được tin điệp viên này đã leo cao, đã có thể khai thác nguồn tin, nhưng mất liên lạc. Họ đề nghị ta giúp móc nối liên lạc với người này. Nhà nước ta đồng ý.

Lá thư họ nhờ nhà nước ta chuyển chỉ có vài dòng chữ nhỏ, kèm tấm ảnh bé xíu của người điệp viên kia, như một cách đánh tín hiệu, đã được chuyển sang cho ta và được ta chuyển từ miền Bắc qua đường Trường Sơn vào Nam. Nhiệm vụ chuyển bức thư đó được giao cho H63, mà cụ thể là tôi và Phạm Xuân Ẩn. Cấp trên chỉ thị cho chúng tôi phải chuyển trực tiếp, tận tay bức thư đó.

Nhận nhiệm vụ, chúng tôi rất lo. Nhiệm vụ quá nguy hiểm! Người nào làm tình báo cũng hiểu vì sao nhiệm vụ đó lại nguy hiểm đến thế. Sau nhiều năm mất liên lạc, không thể nào xác định được điệp viên đó còn trung thành nữa hay không. Mà Phạm Xuân Ẩn, lúc đó đang có một vỏ bọc hoàn hảo, lại phải ra mặt trực tiếp trong vụ này. Nếu điệp viên đó làm phản, anh ta có thể báo người bắn chết chúng tôi ngay tại đó.

Hoặc có thể anh ta sẽ báo người bắt chúng tôi. Hệ thống tình báo H63 sẽ bị lộ và sụp đổ vì một nhiệm vụ quá nguy hiểm. Chúng tôi đem những lo lắng này nói với cấp trên thì nhận được câu trả lời: đây là một việc không thể thoái thác. Cấp trên đã tin tưởng giao cho các anh. Các anh phải thực hiện bằng mọi giá. Dù có phải hi sinh cũng chấp nhận. Sau 2 tháng trời bàn bạc, tôi và Phạm Xuân Ẩn gật đầu nhận nhiệm vụ.

Bữa đó nhận được tin điệp viên này đang dự tiệc ở một khách sạn lớn, tôi và Phạm Xuân Ẩn lái xe tới. Tôi đóng giả là lái xe cho Phạm Xuân Ẩn. Đến nơi, tôi nói với Phạm Xuân Ẩn: “Ông lên làm vụ đó. Nếu trên đó chúng bắt ông, ắt sẽ xuống bắt tôi. Tôi có cây súng, tôi khử vài thằng rồi tôi với ông chết tại đó. Trên hạ quyết tâm như vậy thì ta cũng phải hạ quyết tâm”.

Một lúc sau Phạm Xuân Ẩn xuống, kể với tôi nhiệm vụ đã xong: “Ở trên đó có tiệc đứng, tôi chờ một lúc, thấy ông ta cầm li rượu đi qua, tôi khẽ đưa bức thư nhỏ xíu cho ông ta nhìn thấy ảnh và nói: Thưa ông, có cái thơ bên nhà. Ông kia cầm lấy, bỏ túi, hỏi lại tôi: Tôi gặp ông ở đâu? Tôi trả lời: Tôi công tác ở tờ báo Times. Ông ta nhận rồi tôi rút. Anh Tư ơi, đời tôi làm tình báo 15-16 năm, chưa khi nào tôi như thế này, trên tay đưa cái thư đó mà tự nhiên ở dưới cái chân trái cứ run run, tôi không kiểm soát được”.

Ông Tư Cang (hàng ngồi, thứ 7 từ trái qua) và Đại đội Thông tin, Trung đoàn 656 (ảnh tư liệu năm 1957).

Cả Phạm Xuân Ẩn với Tư Cang đều hiểu, giờ phút mà Phạm Xuân Ẩn phải lộ mặt đó chính là giờ phút sinh tử nhất của Phạm Xuân Ẩn, của Tư Cang và của cụm tình báo H63.

Nhiều năm sau, Tư Cang và Phạm Xuân Ẩn vẫn luôn sống trong một nỗi lo mơ hồ khi nghĩ rằng có thể một ngày nào đó, điệp viên kia làm phản và sẽ tố cáo các ông với tình báo Mỹ - ngụy, như một thứ đồ mang đi cống nạp: “Độ 2-3 ngày sau, điệp viên kia cho người thân tín đến tòa báo Times nói chuyện với Phạm Xuân Ẩn để xác định xem có đúng ông Ẩn làm việc ở Times không. Khi ông ta về được một lúc thì tôi nhận được điện từ trên xuống thông báo: “Các anh đã hoàn thành nhiệm vụ. Hãy cắt đứt toàn bộ thông tin với mối liên lạc này từ bây giờ”.

Nhưng thân phận của Phạm Xuân Ẩn dù gì cũng đã bại lộ. Cái chết treo lơ lửng trên đầu chúng tôi. Cả tôi và Phạm Xuân Ẩn đã trải qua nhiều đêm mất ngủ, luôn chờ đợi một tình huống xấu có thể bất ngờ ập đến bởi lần thực hiện nhiệm vụ nguy hiểm ấy. Nhưng có lẽ là may mắn đã đứng về phía chúng tôi. Sau này cả hai đều biết rằng điệp viên đó đã không hề tố cáo chúng tôi. Vì nếu không, tôi và Phạm Xuân Ẩn chẳng còn có thể sống yên lành cho đến ngày giải phóng”.

Đến năm 1975, cụm tình báo H63 với “điệp viên hoàn hảo” Phạm Xuân Ẩn là cụm tình báo duy nhất chưa hề bị lộ sau nhiều năm bám trụ trong lòng địch. Nhà tình báo Phạm Xuân Ẩn đã giữ gìn được thân phận của mình cho đến những ngày cuối cùng. Điều đó đồng nghĩa với việc ông giữ được chính mạng sống của ông.

Sau này, khi về già, Đại tá tình báo Tư Cang và Thiếu tướng tình báo Phạm Xuân Ẩn là hai người bạn thân thiết, thường xuyên qua lại hàn huyên, tâm sự. Trước ngày nhà tình báo Phạm Xuân Ẩn mất 1 tháng, Đại tá tình báo Tư Cang vào bệnh viện thăm ông.

Nhà tình báo Phạm Xuân Ẩn khi đó đã rất yếu, vẫn nói với Tư Cang: “Tôi với anh còn sống đến giờ này để mà được nằm chờ chết thế này là mừng rồi. Tử vi của chúng ta chẳng biết đẹp đến cỡ nào!”.

Nhớ lại câu nói của Phạm Xuân Ẩn, Đại tá Tư Cang bật cười khi nghĩ về người đồng chí thân thiết: “Phạm Xuân Ẩn đến chết vẫn không bỏ tính cà giỡn!”.

Nỗi ám ảnh của người anh hùng ngành tình báo

Khi được phong Anh hùng LLVTND năm 2006, điều khiến Đại tá tình báo Tư Cang nhớ nhất chính là những đồng đội đã ngã xuống của ông. Cụm tình báo H63 - A18 Anh hùng, có tất cả 45 người thì 27 người đã hi sinh, để bảo vệ mạng lưới tình báo chiến lược, bảo vệ nhà tình báo Phạm Xuân Ẩn, để Phạm Xuân Ẩn có thể hoàn thành nhiệm vụ và trở thành một “điện viên hoàn hảo” như ngày nay.

Lúc còn sống, nhà tình báo Phạm Xuân Ẩn vẫn luôn nói với ông bạn già Tư Cang và với nhiều người khác rằng: “Nếu không có người liên lạc thì nhà tình báo cũng chẳng làm được gì”. Cả Phạm Xuân Ẩn và Tư Cang đều đã trở thành những người anh hùng của ngành tình báo được Đảng và Nhà nước công nhận. Nhưng với các nhà tình báo ấy, những người đồng đội đã ngã xuống của họ là những người anh hùng trong trái tim họ.

Đại tá tình báo Tư Cang kể, mỗi sự hi sinh của đồng đội trong cụm tình báo H63 đều là một phần ký ức quan trọng của cuộc đời ông, một phần khiến ông luôn đau nhói, nhưng tự hào khi nhớ tới. Mỗi chiến sĩ trong cụm tình báo H63, nếu rơi vào tay địch, đều có thể trở thành một mối hiểm họa lớn cho những điệp viên như Phạm Xuân Ẩn.

Thực tế đã chứng minh, không ít cụm tình báo của ta thời chống Mỹ đã bị lộ vì lý do đó. Nhưng cụm tình báo H63 thì không. Vì H63 có những con người tuyệt vời. Đó chính là điều mà Đại tá Tư Cang tự hào nhất trong cuộc đời tình báo của mình.

Là một nhà tình báo, Đại tá Tư Cang luôn hành động theo mệnh lệnh của lý trí. Ở trong nội thành, 13 năm ông không về thăm nhà, dù nhà ngay trong thành phố, cũng chỉ vì lý trí mách bảo ông điều đó sẽ nguy hiểm cho tổ chức.

Vậy mà đôi lần, ông vẫn từ bỏ mệnh lệnh của lý trí, để nghe theo những linh cảm, những thôi thúc mãnh liệt trong tâm hồn mình: “Bữa đó có cậu Tư Lâm, là cán bộ tình báo cùng đi một đợt với tôi năm 1962. Cậu ấy được phân công vào hỗ trợ tôi. Hôm đó, trước khi cậu ấy vào, tôi đã vẽ cho cậu ấy một bản đồ chỉ đường đến nơi tôi đang ở. Nhưng trên đường về cùng cô Tám Kiên - người liên lạc hỏa tốc của H63 - thì Tư Lâm bị địch bắt. Tư Lâm bị chặn ở trạm khám xét của địch. Chúng thấy Tư Lâm mặt mũi xanh rớt, chân tay lại có vết đen đen vàng vàng của người lội bùn nhiều.

Chúng biết người trên chiến khu hay thế nên bắt cậu ấy lại và phát hiện ra cậu ấy là người của ta. Cô Tám Kiên thấy cậu ấy bị bắt nhưng không cứu được, chạy về báo với tôi, bảo: Anh Tư ơi anh Tư, mình phải đi thôi. Tư Lâm bị bắt rồi.

Chỗ này không còn an toàn nữa. Tôi đau nhói khi nghe tin Tư Lâm bị bắt. Theo nguyên tắc thì đúng ra tôi phải di chuyển. Nhưng không hiểu sao tôi rất có niềm tin với cậu ấy. Tôi bảo với Tám Kiên: Cô cứ đi đi, báo cho các mối giao thông liên lạc cứ hoạt động bình thường. Anh Tư ở đây. Anh Tư tin Tư Lâm sẽ không khai đâu. Bằng không nếu nó khai, nó dẫn địch về đây, anh Tư đã có 2 trái lựu đạn rồi. Một trái anh Tư chia với nó. Một trái anh Tư giết thêm vài tên địch”.

Ngày hôm đó, rồi ngày hôm sau, hôm sau nữa, Tư Cang vẫn kiên nhẫn ngồi chờ đợi điều xấu nhất có thể đến. Nhưng trong ông có một niềm tin kỳ lạ vào đồng đội của mình. Niềm tin đó đi ngược lại mọi nguyên tắc tình báo mà ông phải tuân theo.

Nhưng cuối cùng niềm tin của ông đã đúng. Cụm tình báo H63 không hề bị lộ bất cứ thông tin nào dù là nhỏ nhất. Sau lần đó, Tư Lâm bị địch đưa ra nhà tù Phú Quốc và giam ở đây một thời gian dài trước khi chúng bắn chết. Những năm sau hòa bình, khi có điều kiện, Đại tá Tư Cang vẫn ra Phú Quốc để thắp hương cho người đồng đội mà ông đã đánh cược cả mạng sống chỉ để biết được câu trả lời thật sự về niềm tin của mình.

Thời chống Mỹ, Tư Cang thường xuyên đi về giữa nội thành, địa đạo Củ Chi và chiến khu. Mỗi lần về Củ Chi, nơi có các chiến sĩ liên lạc điện đàm và giao thông của cụm H63 ở đó, ông đều thấy thương vô cùng. Có lần ra địa đạo, ông trải rơm trên nền đất và nằm ngủ bên cạnh một cậu chiến sĩ trẻ măng của cụm H63.

Người chiến sĩ ấy đi vào ấp chiến lược để làm nhiệm vụ, đi ngang qua một gia đình giàu có, thấy mấy con heo trong chuồng được nằm nền trát xi măng, được thắp điện sáng để sưởi ấm, về căn cứ nằm trên nền đất ẩm ướt, cậu ta khẽ khàng nói: “Chú Tư ơi chú Tư, cái chỗ mình ngủ bây giờ không bằng chuồng heo nhà giàu”.

Đại tá Tư Cang bảo mỗi lần nhớ lại chuyện đó, ông vẫn thấy rưng rưng xúc động. Những người lính của ông khổ là thế, gian nan là thế nhưng chưa bao giờ thay lòng đổi dạ với cách mạng.

Họ một mực trung thành với con đường cách mạng mà họ đã chọn và hi sinh cho nó: “Có người lính của tôi bị trúng bom trong một trận càn, đến lúc hấp hối trong vòng tay tôi, chẳng dặn dò gì nhiều, chỉ nói: Chú Tư đừng bảo với má tui là tui chết nghen chú Tư, má tui sẽ buồn lắm. Chú Tư cứ nói tui đi học để làm cán bộ, mấy bữa nữa về”.

Hòa bình lập lại đã gần 40 năm. Đại tá tình báo Tư Cang giờ đã là một ông già ngoài 80. Nhưng ký ức về những người đồng đội đã ngã xuống, ký ức về quãng đời tình báo gian nan, nguy hiểm vẫn là những mảng ký ức đậm nhất trong tâm thức của ông.

Có đêm, ông nằm mơ thấy ông đang hẹn gặp vợ ở công viên, một tên mật thám địch lao tới chĩa súng vào đầu ông, ông vung tay đánh lại nó. Tiếng kêu đau đớn của vợ khiến ông choàng tỉnh. Cú đập mạnh của ông trong giấc mơ đã làm bà bị gãy mấy cái răng. Kể từ đêm đó, ông không dám ngủ với bà nữa. Ông sợ không kiểm soát được hành động của mình trong những cơn mộng mị.

Có những đêm, ông nằm mơ thấy những người đồng đội đã chết của mình. Họ về, hỏi ông: “Hòa bình rồi, chú Tư có vui không? Chú Tư đừng vì hạnh phúc riêng mà quên tụi tui nhé”. Khi tỉnh dậy, nước mắt ông chảy tràn... Những ám ảnh ấy, là một phần của cuộc đời ông, cho đến tận lúc chết!

Hương Thảo
.
.
.