“Áo trắng” và mối tình của một tử tù
- “Chiến trường đặc biệt” của các chiến sĩ cách mạng kiên trung trong kháng chiến
- Chuyện vượt ngục của các chiến sĩ cách mạng kiên trung
- Nữ cựu tù kiên trung hai lần vượt ngục
- Người chiến sỹ cộng sản kiên trung, người học trò ưu tú của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Giữa thập niên 60 (thế kỷ XX), ở miền Bắc, thời học phổ thông, tôi đã nghe và biết về mối tình của cặp đôi Nguyễn Thị Châu và tử tù Lê Hồng Tư ở thành phố Sài Gòn rực lửa tranh đấu của đồng bào yêu nước và học sinh, sinh viên. Lớn thêm chút nữa, đọc "Bài thơ Áo trắng" của nhà thơ Lê Anh Xuân từ miền Nam gửi ra, càng thêm yêu mến hình tượng cô nữ sinh "Như cánh chim xanh mang ánh sáng/ Em bay đi, bay khắp đô thành", hoạt động cách mạng. Hơn nửa thế kỷ sau, tôi mới lần đầu được gặp hai ông bà tại nhà riêng, trong con hẻm nhỏ trên đường Nguyễn Duy Dương, quận 10, TP Hồ Chí Minh.
Sinh trưởng ở Biên Hòa, bên một dòng sông đã đi vào thơ ca: "Con sông Đồng Nai nó dài, nước trong xanh mát rượi/ Con gái Đồng Nai xinh xắn tóc dài…". Thân phụ của bà tham gia kháng chiến, bị bắt giam, đổ bệnh rồi mất sớm. Mới 10 tuổi đầu, cô bé đã phụ giúp má nuôi các em. Mỗi lần từ chợ về ngang trường học gần nhà, nghe chúng bạn ê a xướng vần, Châu thầm ao ước được học chữ để ra làm cô giáo hoặc y tá giúp người. Nhà nghèo lắm, nhưng rồi Châu cũng được đến trường. Vừa làm, vừa học. Mỗi sáng, cô gánh cá ra chợ giúp má, chiều đến trường, khuya dậy học bài. Bị ức hiếp, bị cảnh sát giật gánh đổ cá lên đầu, cô bé vẫn không nản chí.
Ông bà Lê Hồng Tư, Nguyễn Thị Châu và tác giả bài viết. |
Xong trung học đệ nhất cấp, cô Châu xin học tiếp, nhưng má không đồng ý. Cô phải biên thư cầu cứu ông chú ruột đang làm ăn xa, trở về Biên Hòa phân tích điều hơn lẽ thiệt, kể cả trợ giúp tiền bạc, thì người mẹ mới xiêu. Nhưng bà bắt con gái cam đoan là phải lo học, không được làm điều gì tai tiếng!
Đến Sài Gòn, cô Châu vào trường tư thục Văn Thanh và được cử làm Trưởng ban toán của lớp. Những chuyến du khảo tham gia văn nghệ, diễn kịch kháng chiến… đã hun đúc thêm trong lòng cô nữ sinh áo trắng tinh thần yêu nước. Tại đây, Châu gặp anh Lê Hồng Tư (lớp trưởng). Hai người cùng hoạt động trong phong trào học sinh, sinh viên thành phố. Rồi anh Tư ra căn cứ trước, còn Châu dù học giỏi vẫn cố tình thi trượt, tạo cớ ở lại đô thành để gây dựng cơ sở. Dẫu chưa ngỏ lời, nhưng từ lâu tình cảm giữa hai người đã trở nên khắng khít.
Sau vụ đấu tranh với Nha học chính Nam Việt, Châu bị nhận diện. Kiếm cớ "về Biên Hòa thăm nội", cô ra cứ và bất ngờ gặp Lê Hồng Tư. Được yêu cầu thoát ly công tác, tuy rất thích song chưa kịp xin phép gia đình, nên Châu quyết định trở về. Định bụng sẽ sắp xếp về thưa chuyện với má, nhưng không kịp. Chiều 9-2-1961, đi học về tới góc đường Trần Hưng Đạo - Trần Bình Trọng, cô bị xe cảnh sát chẹn đường bắt về "trại cải huấn". Có kẻ chỉ điểm và Châu bị "đoàn công tác đặc biệt" của Ngô Đình Cẩn, tên bạo chúa miền Trung khét tiếng, vây bắt.
Từ bót Lê Văn Duyệt, cô bị tống vào Pê Ca-răng-đơ (tức P.42, bót số 42, nằm trong Sở thú Sài Gòn, nơi giam giữ và điều tra khét tiếng của Sở tình báo Mỹ - Diệm). Hết đi Chợ Quán, sang Tổng nha, rồi lại về P.42, qua bót Hàng Keo, lên Thủ Đức… cứ vòng vo hằng năm trời. Biết rõ tung tích của Châu, bọn mật vụ, an ninh tìm đủ mọi cách dụ dỗ, lung lạc. Liền đó là những ngón đòn tra tấn thượng thặng kiểu Mỹ, từ cúp phạt, treo ngược xà nhà, hết đi "tàu lặn", lại lên "tàu bay", đánh chán lại tra điện… Chết đi sống lại nhiều lần, Châu nằm ngất xỉu ở nơi dơ dáy, bẩn thỉu. Nhưng không gì có thể khuất phục nổi ý chí của người nữ sinh.
Những ngày trong xà lim P.42, sau trận đòn bầm giập tả tơi, lúc tỉnh dậy, người con gái nhớ da diết tình cảm của Lê Hồng Tư dành cho mình. Cảm xúc dâng trào, Châu dùng cây kẹp tóc khắc lên tường những câu thơ:
"Áo trắng em chưa vướng bụi đời
Chưa từng mơ tưởng chuyện xa xôi
Nhưng nay gặp cảnh đời chua xót
Áo trắng này nguyện trắng mãi thôi".
Ngày 2-9-1961, trong nhà lao Gia Định, chị em trại nữ tìm mọi cách che mắt địch, tổ chức một đêm văn nghệ rất "xôm". Được sự chuẩn y của Trại ủy, ngay sau các tiết mục văn nghệ, chi bộ cắt cử người canh gác cẩn thận để tuyên bố kết nạp Nguyễn Thị Châu vào Đảng.
Trước đó, ngày 6-4-1961, trên đường Ngô Thời Nhiệm, Đội vũ trang quyết tử Thành đoàn do Lê Hồng Tư và Hà Văn Hiền chỉ huy, diệt tên Wiliam Thomas, chuyên viên cao cấp không quân Mỹ. Tiếp đó, Đội tung lựu đạn vào trụ sở cơ quan USOM trên đường Trần Hưng Đạo. Sau trận đánh nhắm vào Đại sứ Mỹ E.Nolting, không thành, Lê Hồng Tư bị sa vào tay địch. Ngày 23-5-1962, ông và Giáo sư Lê Quang Vịnh cùng 10 người trẻ tuổi khác bị đưa ra xử tại tòa án quân sự Sài Gòn. Ông gây chấn động dư luận trong và ngoài nước với lời tuyên bố: "Tôi chỉ tiếc không đủ tạc đạn để giết hết bọn xâm lược Mỹ!". Bức hình Lê Hồng Tư với lời tuyên bố đanh thép được chuyển ra miền Bắc và in trên Báo ảnh Việt Nam, trở thành lời kêu gọi thanh niên lên đường cứu nước. Ông bị kết án tử hình và đày ra Côn Đảo.
Đám cưới của tử tù Lê Hồng Tư và Nguyễn Thị Châu. |
Sau cuộc đảo chính (11-1963), anh em Diệm - Nhu bị giết, các phe phái quân sự và dân sự liên tục tranh giành đấu đá hạ bệ nhau, chính trường Sài Gòn lún sâu vào khủng hoảng. Nhằm "tranh thủ" dân chúng, đám tướng lãnh lên nắm quyền cho phóng thích nhiều tù chính trị. Một số nhà báo sục vào P.42 và phát hiện ra bài thơ "Áo trắng" trên tường…
Thoát khỏi ngục tù (1964), Nguyễn Thị Châu được Thành đoàn đưa ra căn cứ. Cùng với chị Phan Thị Quyên (vợ Anh hùng Nguyễn Văn Trỗi), Châu được ra miền Bắc. Ngày 18-5-1969, người của Ủy ban Thống nhất bảo hai chị em mặc đẹp, chuẩn bị "đi công tác". Khi xe đưa đến Phủ Chủ tịch, họ mới biết mình được đến thăm Bác Hồ. Lúc này, sức khỏe của Bác đã suy giảm rất nhiều. Giây phút đầu tiên được nhìn thấy Bác, cả hai chị em cứ nắm chặt tay Người mà khóc vì quá đỗi sung sướng và xúc động. Châu nghẹn ngào thưa với Bác Hồ, con xin được về Nam tiếp tục chiến đấu, để sớm được đón Bác vào thăm đồng bào, đồng chí trong đó. Người mỉm cười bảo, các cháu đã chịu nhiều cực khổ, ra đây, phải ráng học, mai mốt về xây dựng lại quê hương! Chỉ vài tháng sau thì Bác Hồ đi xa…
Từ đây, hai chị em được đi thăm Liên Xô, Trung Quốc, Triều Tiên, cùng một số nước XHCN khác. Tháng 5-1973, Nguyễn Thị Châu lên đường trở lại miền Nam nhận nhiệm vụ mới. Sau đại thắng mùa xuân 1975, Thành ủy Sài Gòn - Gia Định chỉ định thành lập Ban Chấp hành Đảng bộ quận 10 gồm 5 đồng chí, 2 cán bộ chủ chốt đều là nữ. Nguyễn Thị Châu (Hai Thanh) là Chủ tịch UBND cách mạng quận 10. Ngày 7-5-1975, tại Học viện Quốc gia hành chánh, trên đường Trần Quốc Toản (nay là đường 3-2), UBND cách mạng quận 10 làm lễ ra mắt với sự chứng kiến của đông đảo đồng bào.
Thoát án tử hình, Lê Hồng Tư cùng nhiều anh chị em tù chính trị được đưa về đất liền. Mối tình vượt song sắt, sau hơn 14 năm ròng, đã đơm hoa. Ngày 17-8-1975, đám cưới của Lê Hồng Tư và Nguyễn Thị Châu được tổ chức ngay trong Học viện Quốc gia hành chính. Tiệc cưới có bánh, kẹo và thuốc lá. Họ chỉ mời khoảng 200 khách, nhưng hơn 600 người đến dự. Bà con trên địa bàn quận, tò mò tới coi để biết "đám cưới cách mạng" thế nào; còn bạn bè, hay tin tự động kéo đến chung vui. Nhà thơ Lưu Trọng Lư, khi ấy ở Bộ Văn hóa, vào Sài Gòn công tác, hay tin có đám cưới của một tử tù, liền dẫn cả đoàn tới dự và cho quay phim, chụp hình rất nhiều. Thời điểm thành phố vừa được giải phóng thì đây là một "sự kiện". Và cũng vì vậy mà nữ Chủ tịch quận bị phê bình tổ chức "đám cưới phô trương"! Đúng 29 năm sau, người con trai duy nhất của ông bà, anh Lê Nguyễn Hồng Quang cũng tổ chức đám cưới tại nơi này…
Sau thời gian nghỉ sinh con, bà Châu được chuyển sang Hội LHPN thành phố. Học xong trường Đảng trở về, bà về Ủy ban Bảo vệ bà mẹ trẻ em thành phố, rồi Sở Giáo dục… Trong vai trò Chủ tịch Quỹ bảo trợ trẻ em của TP Hồ Chí Minh, bà Châu là thành viên đoàn Phụ nữ Việt Nam tham dự đại hội Quốc tế về phụ nữ lần thứ IV, do Ủy ban Địa vị phụ nữ của Liên hiệp quốc, tổ chức tại Bắc Kinh (Trung Quốc), tháng 9-1995.
Trải bao thăng trầm, mối tình của bà Nguyễn Thị Châu và ông Lê Hồng Tư ngày càng bền chặt và đẹp hơn cả những trang sách. Mùa xuân này, ông bà đều đã vượt ngưỡng bát thập, song họ vẫn dành cho nhau tình cảm ngọt ngào nồng ấm như xưa.