Xây dựng hành lang pháp lý về an ninh mạng: Không trái với Điều ước quốc tế trong WTO, CPTTP

Thứ Ba, 25/12/2018, 08:57
Luật An ninh mạng và văn bản quy phạm pháp luật đi kèm quy định doanh nghiệp nước ngoài khai thác thương mại trên không gian mạng phải đặt văn phòng đại diện và lưu trữ tại Việt Nam có trái với thông lệ quốc tế, đặc biệt là Điều ước trong Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên thái Bình Dương CPTTP mà Việt Nam tham gia? Câu trả lời mà chúng tôi đi tìm được là “Không”.

Nếu quy định này trái với Điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia thì các quốc gia Mỹ, Đức, Pháp, Nga, Canada, Ấn Độ, Trung Quốc, Indonesia… không thể đưa ra các quy định việc lưu trữ dữ liệu trong nước hoặc địa phương hoá dữ liệu. Được biết, qua rà soát các điều ước liên quan như WTO, CPTPP thấy rõ, quy định này không trái với các điều ước mà Việt Nam đã ký kết.

Cụ thể, đối với cam kết gia nhập WTO. Ngoại lệ đã được đặt ra trong quá trình đàm phán và xây dựng các văn kiện của WTO, đặc biệt được chú trọng trong các lĩnh vực thương mại quốc tế và quy định tại các văn kiện của WTO trong 3 lĩnh vực thương mại hàng hoá, thương mại dịch vụ và sở hữu trí tuệ, trực tiếp là: Hiệp định chung về thuế quan và thương mại (GATT 1994), Hiệp định chung về thương mại dịch vụ (GATS), Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ (TRIPS).

Trong Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), sau này là CPTPP, luôn có điều khoản ngoại lệ về an ninh, tôn trọng và đề cao an ninh quốc gia trong bất cứ hoạt động thương mại nào được đề cập. Cụ thể:

Tại Khoản 2, Điều 14.18: Giải quyết tranh chấp đã quy định: “2. Đối với các biện pháp hiện đang áp dụng, Việt Nam không phải tuân thủ theo nguyên tắc giải quyết tranh chấp quy định tại Điều 28 (Giải quyết tranh chấp) liên quan đến nghĩa vụ của nước này quy định tại Điều 14.4 (Cách thức đối xử không phân biệt đối với các sản phẩm số) và Điều 14.11 (Chuyển giao thông tin xuyên biên giới bằng các phương tiện điện tử) và Điều 14.13 (Địa điểm của hạ tầng công nghệ thông tin) trong thời hạn hai năm kể từ sau ngày Hiệp định này có hiệu lực tại Việt Nam.

Tại Điều 29.2: Ngoại lệ về an ninh đã nêu rõ: “Không có quy định nào của Hiệp định này: a, đòi hỏi một bên phải cung cấp và cho phép tiếp cận thông tin mà việc tiết lộ được coi là trái với các lợi ích an ninh thiết yếu của mình; hoặc (b) ngăn cản một bên áp dụng những biện pháp cần thiết để thực hiện các nghĩa vụ liên quan đến gìn giữ và khôi phục hoà bình và an ninh quốc tế hay bảo vệ các lợi ích an ninh thiết yếu”.

Phạm Tấn
.
.
.