Trùng tu cầu ngói Thanh Toàn xưa Huế

Chủ Nhật, 26/04/2020, 16:48
Là một di tích kiến trúc cổ có giá trị về mặt lịch sử và văn hóa, Cầu ngói Thanh Toàn với lối kiến trúc “Thượng gia, hạ kiều” (trên nhà dưới cầu) xứng danh cùng chùa Cầu Hội An, cầu ngói Phát Diệm (Ninh Bình), cầu ngói chợ Thượng, cầu ngói chùa Lương (Nam Định), năm cây cầu hiếm và có giá trị nghệ thuật cao nhất trong các loại cầu cổ ở Việt Nam. Năm 1990, cầu ngói Thanh Toàn được cấp bằng công nhận là Di tích văn hóa cấp Quốc gia.


Cầu ngói Thanh Toàn chính là trái tim và là hạt nhân du lịch của làng Thanh Thủy Chánh, xã Thủy Thanh, thị xã Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên Huế. Cây cầu dài 43 thước mộc (khoảng 18,75m), rộng 14 thước (khoảng 5,82m) được xây dựng vào năm 1776 bởi bà Trần Thị Đạo, vợ một vị quan cấp cao dưới triều vua Lê Hiển Tông, với mục đích để dân làng qua lại thuận tiện và là nơi cho lữ khách cùng người tha phương tạm dừng chân lỡ bước.

Đến ngày nay, cây cầu là điểm nối để làng Thanh Thủy Chánh được du khách biết tới, là động lực mở ra dịch vụ du lịch “Chợ quê ngày hội” diễn ra trong mùa Festival Huế.

Cầu ngói Thanh Toàn đang trong quá trình trùng tu

Sau nhiều lần trùng tu trong 244 năm tồn tại, cầu ngói Thanh Toàn lần nữa được trùng tu vào đầu năm 2020.  Một phần tu bổ lại cây cầu, một phần là để khắc phục một số hạn chế của những lần trùng tu trước. Dự án bảo tồn, tu bổ và tôn tạo di tích cầu ngói Thanh Toàn được UBND tỉnh phê duyệt năm 2016 với mức đầu tư hơn 13 tỉ đồng, thực hiện trong 3 năm và chính thức được hạ giải ngày 17 tháng 4 vừa qua. 

Tuy nhiên, sau khi di tích cầu ngói Thanh Toàn được hạ giải, nhiều người dân và dư luận có ý kiến bày tỏ lo ngại công tác trùng tu sẽ khiến di tích này mất đi giá trị nguyên bản. Nhất là khi trong tấm pano giới thiệu về công trình hình cảnh cầu ngói Thanh Toàn có màu sắc sặc sỡ, nhiều người ví như “chùa Tàu”. 

Các thanh dầm, cột sau khi hạ giải được để ngoài trời không che đậy

Ông Võ Ngọc Thành, Giám đốc Ban Quản lý dự án ĐT&XD thị xã Hương Thủy, đơn vị chủ đầu tự dự án, nói rằng pano giới thiệu về công trình do được thiết kế trên phần mềm 3D nên màu sắc có phần sặc sỡ. Ông cũng cam kết sẽ tuân thủ nguyên tắc sử dụng vật liệu, chất liệu như cũ, màu sắc đúng nguyên bản. Tuy nhiên, một số người vẫn lo lắng cho cây cầu, không biết sau lần trùng tu này có còn được như xưa hay không.

Những người công nhân tại công trình cho biết, không chỉ sử dụng vật liệu, chất liệu như cũ, họ cũng sẽ tái sử dụng tối đa các bộ phận kết cấu bằng gỗ vẫn còn đảm bảo chất lượng, đồng thời thời gian trùng tu dự kiến là trong khoảng 1 năm. 

Nhưng, cho đến thời điểm này, khi đến tận nơi thì chúng tôi thấy khá lo lắng khi tiến độ thi công chậm. Cả công trình chỉ có 2 công nhân… đặc biệt, những vật liệu tháo từ cây cầu cũ, hầu hết là gỗ gồm các thanh dầm, cột, trướng để ngoài trời không che đậy, trong khi Thừa Thiên Huế đã mưa từ 2 ngày trước.

Dư luận băn khoăn bởi năm 2017, một di tích nổi tiếng của Huế sau khi trùng tu cũng đã chịu nhiều phản ứng trái chiều mãnh liệt đến từ người dân đất Cố đô nói chung và người yêu lịch sử riêng, đó là Đài tưởng niệm chiến sỹ trận vong, thường được người dân gọi là Bia Quốc học vì vị trí nằm đối diện với trường Quốc Học. 

Đài tưởng niệm chiến sỹ trận vong được xây dựng vào năm 1920 nhằm tưởng niệm những binh sỹ người Pháp và người Việt ở Trung Kỳ đã bỏ mạng vì sự nghiệp giúp nước Pháp đánh Đức trong chiến tranh thế giới lần thứ nhất. Vốn kiến trúc này mang một màu sắc cổ kính rêu phong, tuy nhiên sau khi trùng tu bia Quốc Học đã trở nên lòe loẹt, những yếu tố về lịch sử, kiến trúc dường như không còn được bảo tồn, không còn đảm bảo được những giá trị nguyên thủy như một công trình kiến trúc Pháp tiêu biểu.

Cũng bởi vì “tấm gương” Bia Quốc Học, người dân xứ Huế cảm thấy lo lắng cho cầu ngói Thanh Toàn sau trùng tu cũng là điều hoàn toàn có thể hiểu được. Chỉ mong rằng sẽ đúng như lời của bên thi công công trình cam kết, rằng cây cầu sau trùng tu vẫn sẽ giữ lại được màu sắc kiến trúc nguyên bản của mình. Để cầu ngói Thanh Toàn là điểm đến trong các kỳ Festival của Huế.

Phạm Phước Châu
.
.
.