Việc kết án đối với Trần Văn Vót không bị oan

Thứ Tư, 19/10/2016, 16:08
Ngày 19-10, TAND tối cao đã tổ chức họp báo thông tin về vụ án Trần Văn Vót bị kết án về các tội: Giết người, vi phạm các quy định về quản lý và bảo vệ đất đai, tàng trữ vũ khí trái phép và gây rối trật tự công cộng xảy ra tại tỉnh Nam Hà (cũ).


* Từ quả lựu đạn ném vào đám đông tranh chấp ruộng đất

Đây là vụ án mà thời gian qua, một số phương tiện truyền thông và dư luận cho rằng, có dấu hiệu của oan sai. Đồng chí Nguyễn Sơn, Phó Chánh án TAND tối cao chủ trì. 

Cùng dự buổi họp báo có đại diện Viện KSND tối cao và Bộ Công an. Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Lân Dũng, nguyên đại biểu Quốc hội (người có đơn đề nghị các đồng chí lãnh đạo Nhà nước, Chính phủ, Quốc hội đề nghị xem xét lại vụ án này) cũng được mời dự buổi họp báo.

Ông Trần Văn Vót trong trại giam. Ảnh: Zing.vn

Theo nội dung vụ án, do mâu thuẫn về tranh chấp ruộng đất giữa hai miền Nhân Phúc và Thanh Nga thuộc xã Phú Phúc, huyện Lý Nhân, tỉnh Nam Hà (cũ), khoảng 13 giờ ngày 29-11-1992, người dân hai miền Nhân Phúc và Thanh Nga đã xảy ra xô xát, ném gạch đá lẫn nhau.

Trong thời gian hai bên xô xát, Trần Văn Vót (là Bí thư chi bộ 4 Lý Nội, Nhân Phúc) đã đưa cho Trần Ngọc Thanh 1 quả lựu đạn để ném về phía dân miền Thanh Nga. Do lần đầu tiên ném lựu đạn nên Thanh đã ném lựu đạn vào tốp người của miền Nhân Phúc.

Hậu quả làm 1 người chết, 21 người bị thương. Khi hành vi phạm tội chưa bị phát hiện, ngày 7-2-1993, Thanh nhập ngũ tại Trung đoàn 139 Bộ tư lệnh thông tin. 

Ngày 12-2-1993, Thanh tự thú với cán bộ cấp Tiểu đội trưởng, Trung đội trưởng, Đại đội trưởng của Trung đoàn 139 về hành vi ném lựu đạn ngày 29-11-1992 và khai, Vót là người đưa lựu đạn cho Thanh ném. Quá trình điều tra vụ án, Vót không thừa nhận hành vi đưa lựu đạn cho Thanh

Bản án sơ thẩm số 37HS/ST ngày 26-2-1994 của TAND tỉnh Nam Hà đã xử phạt Vót tù chung thân về tội giết người, 10 năm tù về tội phá hoại việc thực hiện các chính sách kinh tế xã hội, 2 năm tù về tội tàng trữ vũ khí trái phép và 3 năm tù về tội gây rối trật tự công cộng, tổng hợp hình phạt chung là tù chung thân; xử phạt Thanh 15 năm tù về tội giết người.

* Ông Trần Văn Vót không bị oan

Sau phiên tòa sơ thẩm, Vót kháng cáo kêu oan và Thanh kháng cáo xin giảm hình phạt. Bản án phúc thẩm số 1030 ngày 27- 8-1994 của Tòa phúc thẩm TAND tối cao giữ nguyên hình phạt đối với Thanh, thay đổi tội danh và giảm hình phạt cho Vót từ tội phá hoại việc thực hiện các chính sách kinh tế xã hội sang tội vi phạm các quy định về quản lý và bảo vệ đất đai, giữ nguyên các hình phạt và tội danh khác đối với Vót.

Sau khi xét xử phúc thẩm, TAND tối cao và Viện KSND tối cao đã nhận được đơn khiếu nại của Thanh, của ông Trần Ngọc Thông, bà Trần Thị Tân (bố mẹ của Thanh) và đơn của ông Trần Văn Vấn (bố của Trần Văn Vót).

Tại Công văn số 263/HS ngày 10-8-1995, Phó Chánh án TAND tối cao trả lời ông Trần Ngọc Thông và bà Trần Thị Tân với nội dung: Việc Trần Ngọc Thanh tự thú là hoàn toàn tự giác, không có ai ép buộc, không có việc uống rượu say dẫn đến khai sai sự thật.

Tại cơ quan Công an cũng như tại Viện KSND tỉnh Nam Hà, Thanh đều khai nhận tội của mình và thừa nhận không hề bị  cán bộ đánh hoặc ép cung. Việc ông bà nại rằng, người ném lựu đạn chiều ngày 29- 11- 1992 là Trần Văn Cự, ở thôn Thanh Nga là không có cơ sở. Bản án phúc thẩm xử phạt Thanh 15 năm tù về tội giết người là đúng pháp luật, không oan.

Đại diện TAND tối cao, Viện KSND tối cao và Bộ Công an thông tin cho báo chí về vụ án Trần Văn Vót.

Sau đó, TAND tối cao tiếp tục nhận được đơn khiếu nại của bố mẹ Thanh và gia đình bị hại Trần Văn Việt cho rằng, việc điều tra vụ án không khách quan, dẫn đến việc kết tội oan cho Thanh và Vót. 

TAND tối cao đã chuyển đơn khiếu nại này đến Vụ 3 Viện KSND tối cao giải quyết theo thẩm quyền. Năm 2000, Viện KSND tối cao đã nghiên cứu hồ sơ vụ án và thấy rằng, Tòa án các cấp kết án Vót và Thanh về tội giết người là có căn cứ, không oan.

Tại Công văn số 853/VPCTN-PL ngày 1- 6- 2015 của Văn phòng Chủ tịch nước thông báo ý kiến chỉ đạo của Chủ tịch nước: yêu cầu Chánh án TAND tối cao và Viện trưởng Viện KSND tối cao chỉ đạo xem xét lại vụ án, giải quyết theo đúng quy định của pháp luật, trả lời ông Nguyễn Lân Dũng, báo cáo Chủ tịch nước kết quả.

Sau đó, TAND tối cao tiếp tục nhận được công văn của Thủ tướng Chính phủ chuyển đơn của ông Nguyễn Lân Dũng cũng với nội dung xem xét lại vụ án. Kèm theo kiến nghị của ông Nguyễn Lân Dũng là đơn khiếu nại của ông Trần Anh Điền (bố của bị hại Trần Văn Việt) đề nghị xem xét lại vụ án với lý do, Trần Văn Vót không đưa lựu đạn cho Thanh và Thanh không ném lựu đạn.

Trong cuộc họp liên ngành Trung ương ngày 31-7- 2015, do Phó Chánh án Nguyễn Sơn chủ trì với sự tham dự của Thứ trưởng Bộ Công an Lê Quý Vương và đại diện các đơn vị chức năng thuộc Bộ Công an và Viện KSND tối cao đã thống nhất thành lập Tổ chuyên viên liên ngành để nghiên cứu lại vụ án, xác minh các vấn đề liên quan.

Ngày 30-9-2015, Ủy ban Tư pháp của Quốc hội có Công văn số 3011/UBTP13 chuyển kiến nghị của ông Nguyễn Lân Dũng đề nghị xem xét lại vụ án Trần Văn Vót. Ngày 13-4-2016 Chủ tịch Quốc hội phê chuyển thư của ông Nguyễn Lân Dũng đến Chánh án TAND tối cao, Viện trưởng Viện KSND tối cao.

Ngày 29-4-2016, Ủy ban Tư pháp của Quốc hội tiếp tục có văn bản chuyển đơn kiến nghị của các luật sư đề nghị xem xét lại vụ án này. Ngày 21-4-2016, Văn phòng Chính phủ có Công văn số 2774/VPCP-V.I thông báo ý kiến của Phó Thủ tướng Chính phủ Trương Hòa Bình gửi lãnh đạo Bộ Công an, Viện KSND tối cao, TAND tối cao đề nghị xem xét sớm vụ án này. Ngoài ra, hai đại biểu Quốc hội là Trần Thị Quốc Khánh và Phùng Đức Tiến cũng có văn bản chuyển đơn khiếu nại liên quan đến vụ án này.

Thông tin tại buổi họp báo, đại diện TAND tối cao, Viện KSND tối cao và Bộ Công an khẳng định, thực hiện chỉ đạo của lãnh đạo các cơ quan tố tụng Trung ương, Tổ chuyên viên liên ngành đã khẩn trương nghiên cứu các tài liệu của hồ sơ vụ án; nghiên cứu những vấn đề kiến nghị của ông Nguyễn Lân Dũng, nội dung các đơn khiếu nại do hai đại biểu Quốc hội là Trần Thị Quốc Khánh, Phùng Đức Tiến chuyển, khiếu nại của người đại diện hợp pháp của người bị hại và những nội dung mà một số báo, đài đưa tin liên quan đến vụ án;

Trực tiếp quan sát hiện trường; làm việc với những cán bộ có mặt tại hiện trường lúc lựu đạn nổ và cán bộ trực tiếp điều tra vụ án; làm việc với những người được phỏng vấn cung cấp thông tin trên báo, đài, người liên quan đến tình tiết của vụ án; làm việc với các lãnh đạo của Trung đoàn 139 Bộ Tư lệnh thông tin; làm việc với Trần Văn Vót, Trần Ngọc Thanh và các phóng viên đưa tin, bài.

Kết quả tổng hợp các vấn đề đã được thẩm định, xác minh nêu trên, các cơ quan tiến hành tố tụng ở Trung ương đã kết luận: các căn cứ mà Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm áp dụng để kết tội Trần Văn Vót và Trần Ngọc Thanh, về tội giết người là có căn cứ, đúng pháp luật, không oan.

Nguyễn Hưng
.
.
.