Hưởng ứng cuộc thi “Tìm hiểu Hiến pháp năm 2013":

Chính quyền địa phương trong Hiến pháp năm 2013

Thứ Sáu, 10/04/2015, 08:04
Chính quyền địa phương là thuật ngữ được sử dụng để chỉ những thiết chế nhà nước, có tư cách quyền lực công, được thành lập một cách hợp hiến, hợp pháp để quản lý điều hành mọi mặt đời sống, kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội trên một đơn vị hành chính - lãnh thổ của một quốc gia, trong giới hạn thẩm quyền, cách thức, thủ tục do pháp luật quy định.
Ở nước ta, chính quyền địa phương là một trong những nội dung có vị trí hết sức quan trọng trong tổ chức bộ máy nhà nước, luôn được ghi nhận trong các bản hiến pháp. Qua 20 năm thực hiện Hiến pháp năm 1992, các quy định về chính quyền địa phương đã phát huy hiệu lực, hiệu quả. Đến nay, trong bối cảnh tình hình mới, quy định về chính quyền địa phương trong Hiến pháp năm 2013 đã có một số thay đổi so với Hiến pháp năm 1992.

Trước hết, về tên gọi của chương, Hiến pháp năm 2013 đã đổi tên gọi của chương từ "Hội đồng nhân dân (HĐND) và Ủy ban nhân dân (UBND)" thành "Chính quyền địa phương", thể hiện sự đổi mới nhận thức về chính quyền địa phương; nâng cao tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của chính quyền địa phương trong hệ thống hành chính thống nhất, thông suốt của một nhà nước đơn nhất.

Hiến pháp năm 2013 đã lựa chọn cách quy định mở, giao cho Luật Tổ chức chính quyền địa phương thực hiện việc xác định lại cấp chính quyền, phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo và đơn vị hành chính, kinh tế đặc biệt.

Về đơn vị hành chính, Điều 110 Hiến pháp năm 2013 quy định: Các đơn vị hành chính của nước CHXHCN Việt Nam được phân định như sau: Nước chia thành tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; tỉnh chia thành huyện, thị xã và thành phố thuộc tỉnh; thành phố trực thuộc Trung ương chia thành quận, huyện, thị xã và đơn vị hành chính tương đương; huyện chia thành xã, thị trấn; thị xã và thành phố thuộc tỉnh chia thành phường và xã; quận chia thành phường. Đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt do Quốc hội thành lập.

Như vậy, về cơ bản Hiến pháp năm 2013 tiếp tục kế thừa quy định của Hiến pháp năm 1992 nhằm bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ, ổn định trong cấu trúc hành chính ở nước ta; đồng thời bổ sung một số nội dung như ở thành phố trực thuộc Trung ương, ngoài đơn vị hành chính có tính truyền thống còn có "đơn vị hành chính tương đương" với cấp quận, huyện, thị xã; "đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt do Quốc hội thành lập"… Đây là nội dung phải được tính toán kỹ lưỡng, khoa học, bảo đảm tính thực tiễn khi xây dựng Luật Tổ chức chính quyền địa phương.

Về tổ chức chính quyền địa phương: Điều 111 Hiến pháp năm 2013 quy định, chính quyền địa phương được tổ chức ở các đơn vị hành chính của nước CHXHCN Việt Nam. Cấp chính quyền địa phương gồm có HĐND và UBND được tổ chức phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt do luật định".

Với quy định này, chính quyền địa phương được tổ chức ở tất cả các đơn vị hành chính, nhưng không phải ở tất cả các đơn vị hành chính, chính quyền địa phương cũng được tổ chức giống nhau. Đồng thời, không phải chính quyền ở bất kỳ một đơn vị hành chính nào cũng là một cấp chính quyền.

Ở đâu được quy định là cấp chính quyền thì chính quyền ở đó bao gồm HĐND và UBND, UBND do HĐND cùng cấp bầu ra; còn ở đâu không được quy định là cấp chính quyền thì sẽ có cơ quan hành chính thực hiện nhiệm vụ quản lý hành chính và dịch vụ công tại địa bàn; cơ quan hành chính này có thể được thiết lập bằng nhiều cách thức khác nhau, có thể do cơ quan hành chính cấp trên quyết định thành lập, hay do HĐND cấp dưới bầu, hoặc theo cách thức khác.

Về nhiệm vụ, quyền hạn, Hiến pháp năm 2013 đã bổ sung một điều mới (Điều 112) quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương với một số nội dung như quy định cụ thể chính quyền địa phương có 2 loại nhiệm vụ (tổ chức và bảo đảm việc thi hành Hiến pháp và pháp luật tại địa phương; quyết định các vấn đề của địa phương do luật định; chịu sự kiểm tra, giám sát của cơ quan nhà nước cấp trên); đồng thời, nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương còn được xác định trên cơ sở phân định thẩm quyền giữa các cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương và của mỗi cấp chính quyền địa phương.

Về địa vị pháp lý của chính quyền địa phương và chức năng, nhiệm vụ của HĐND và UBND, so với Hiến pháp năm 1992, địa vị pháp lý của chính quyền địa phương và chức năng, nhiệm vụ cụ thể của HĐND và UBND quy định trong Hiến pháp năm 2013 không có những thay đổi căn bản, nhưng được quy định theo hướng cụ thể hơn.

Theo đó, HĐND tiếp tục thực hiện hai loại chức năng: quyết định và giám sát. UBND ở cấp chính quyền địa phương do HĐND cùng cấp bầu là cơ quan chấp hành của HĐND, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm trước HĐND và cơ quan hành chính nhà nước cấp trên, có nhiệm vụ tổ chức việc thi hành Hiến pháp và pháp luật ở địa phương; tổ chức thực hiện nghị quyết của HĐND và thực hiện các nhiệm vụ do cơ quan nhà nước cấp trên giao (khoản 2 Điều 114).

Như vậy, ở những đơn vị hành chính mà chính quyền ở đó không được coi là cấp chính quyền thì việc thành lập cơ quan hành chính sẽ do luật định. Điều này tạo nên sự năng động hơn trong việc thành lập cơ quan hành chính ở các đơn vị hành chính khác nhau.

Về mối quan hệ giữa HĐND, UBND với Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên, về cơ bản, Hiến pháp năm 2013 tiếp tục kế thừa các quy định của Hiến pháp năm 1992. Trong đó, HĐND, UBND thực hiện chế độ thông báo tình hình của địa phương cho Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, lắng nghe ý kiến, kiến nghị của các tổ chức này về xây dựng chính quyền và phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương; phối hợp với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân động viên nhân dân cùng Nhà nước thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh ở địa phương.

Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc và người đứng đầu tổ chức chính trị - xã hội ở địa phương được mời tham dự các kỳ họp HĐND và được mời tham dự hội nghị UBND cùng cấp khi bàn các vấn đề có liên quan.

Hoàng Vi Hương
.
.
.