Các chuyên gia hướng dẫn chẩn đoán và điều trị bệnh đậu mùa khỉ
Các chuyên gia và các thành viên Hội đồng chuyên môn của Bộ Y tế và các bệnh viện trên cả nước thống nhất chia các thể lâm sàng của bệnh nhân mắc đậu mùa khỉ thành 3 thể: Không triệu chứng, nhẹ và nặng.
Ngày 26/7, tại Cục Quản lý Khám, chữa bệnh (Bộ Y tế) đã diễn ra cuộc họp Hội đồng chuyên môn nghiệm thu hướng dẫn chẩn đoán và điều trị bệnh đậu mùa khỉ ở người, ngay sau khi tổ chức Y tế thế giới ban bố tình trạng y tế khẩn cấp toàn cầu.
Tham dự cuộc họp còn có các chuyên gia đến từ các Vụ, Cục của Bộ Y tế, các cán bộ kỹ thuật của WHO, CDC, các thành viên Hội đồng chuyên môn của Bộ Y tế đến các bệnh viện trên cả nước.
GS Nguyễn Văn Kính, Phó Chủ tịch thường trực Tổng Hội Y học Việt Nam, nguyên Giám đốc Bệnh viện Bệnh nhiệt đới Trung ương - được Bộ Y tế phân công là Chủ tịch Hội đồng chuyên môn.
Tại cuộc họp, các bác sĩ, chuyên gia cho hay, việc xây dựng các nội dung trong Hướng dẫn được tham khảo từ thực tế các trường hợp bệnh cụ thể của đồng nghiệp trên thế giới, kinh nghiệm điều trị bệnh truyền nhiễm tại Việt Nam và hướng dẫn của WHO và các tổ chức uy tín khác.
Hướng dẫn chuyên môn giúp các cơ sở y tế phát hiện sớm ca bệnh, chẩn đoán và điều trị kịp thời, chủ động trong công tác đáp ứng về cơ sở vật chất, thuốc, trang thiết bị cho điều trị bệnh đậu mùa khỉ xuất hiện ở Việt Nam.
Các chuyên gia trong cuộc họp xác định có 4 giai đoạn trong diễn biến bệnh đậu mùa khỉ.
Ở giai đoạn ủ bệnh kéo dài từ 6 -13 ngày, (dao động từ 5 - 21 ngày), người nhiễm không có triệu chứng và không có khả năng lây nhiễm.
Ở giai đoạn khởi phát (từ 1 - 5 ngày), các triệu chứng chính là sốt và nổi hạch ngoại vi toàn thân. Kèm theo người bệnh có thể có biểu hiện đau đầu, mệt mỏi, ớn lạnh, đau họng, đau cơ. Virus có thể lây sang người khác từ giai đoạn này.
Ở giai đoạn toàn phát, đặc trưng là sự xuất hiện của các ban trên da, thường gặp sau sốt từ 1- 3 ngày. Phát ban có xu hướng ly tâm, gặp nhiều trên mặt, lòng bàn tay, lòng bàn chân. Ban cũng có thể gặp ở miệng, mắt, cơ quan sinh dục.
Ban tuần tự từ dát (tổn thương có nền phẳng) đến sẩn (tổn thương cứng hơi nhô cao) rồi thành mụn nước (tổn thương chứa đầy dịch trong) và mụn mủ (tổn thương chứa đầy dịch vàng). Mụn này sẽ đóng vảy khô, bong tróc và có thể để lại sẹo.
Kích thước tổn thương da được xác định trung bình từ 0,5 – 1 cm. Số lượng tổn thương da có thể từ vài nốt cho đến dày đặc. Trường hợp nghiêm trọng các tổn thương có thể liên kết với nhau thành các mảng tổn thương da lớn.
Trong giai đoạn hồi phục, các triệu chứng có thể kéo dài từ 2 đến 4 tuần rồi tự khỏi. Người bệnh hết các triệu chứng lâm sàng, các sẹo trên da có thể ảnh hưởng đến thẩm mỹ và không còn nguy cơ lây nhiễm cho người khác.
Các chuyên gia và các thành viên Hội đồng chuyên môn của Bộ Y tế và các bệnh viện trên cả nước thống nhất chia các thể lâm sàng của bệnh nhân mắc đậu mùa khỉ thành 3 thể: Không triệu chứng, nhẹ và nặng.
Ở thể nhẹ, các triệu chứng thường hết sau 2 đến 4 tuần mà không cần bất kỳ biện pháp điều trị đặc hiệu nào.
Ở thể nặng, bệnh thường gặp trên nhóm đối tượng nguy cơ cao (phụ nữ mang thai, người cao tuổi, trẻ em, người mắc bệnh lý nền, suy giảm miễn dịch,…), có thể dẫn tới tử vong, thường từ tuần thứ 2 của bệnh.
Bệnh nhân có thể bị nhiễm khuẩn da, với biểu hiện có sốt kéo dài, dịch nốt phỏng đục hoặc nốt phỏng bị vỡ chảy dịch đục. Xét nghiệm các markers nhiễm trùng tăng cao; cấy dịch nốt phỏng có vi khuẩn.
Bệnh nhân cũng có thể bị viêm phổi với các triệu chứng như ho, tức ngực, khó thở... chụp phim phổi thấy rõ tổn thương; viêm não: ý thức suy giảm, co giật, lú lẫn, dịch não tủy biến đổi. PCR dịch não tủy dương tính với virus đậu mùa khỉ hay nhiễm khuẩn huyết biểu hiện sốt kéo dài, tổn thương các cơ quan phủ tạng, cấy máu mọc vi khuẩn.