Tác phẩm đỉnh cao nhìn từ nhiều phía
PV: Hai ông có thể cho biết quan điểm của mình về tác phẩm đỉnh cao?
![]() |
| Nhà LLPB Bùi Việt Thắng. |
Nhà LLPB Bùi Việt Thắng: Cái gọi là “tác phẩm đỉnh cao” thể hiện mong muốn của chúng ta, dĩ nhiên là chân chính. Nhưng như văn hào Đức Gơt (Goethe, 1749-1832) đã viết “Lí thuyết thì xám còn cây đời mãi mãi xanh tươi”. Chúng ta phải tự ý thức một cách sâu sắc rằng chúng ta là ai? Chúng ta đang đứng ở đâu trong thế giới hiện đại này? Nếu không tỉnh táo thì chúng ta dễ lây nhiễm cái căn bệnh thắng lợi tinh thần mà văn hào Trung Quốc Lỗ Tấn đã khái quát trong kiệt tác “AQ chính truyện”. Nền văn học đương đại Việt Nam không phải là không có những tác phẩm thành công, nhưng để đạt tới cái gọi là “tác phẩm đỉnh cao” thì chúng ta còn phải phấn đấu lâu dài (đơn vị tính thời gian là hàng chục năm). Nhưng cũng không vì thế mà bi quan, theo tôi thì, “có hoa mừng hoa có nụ mừng nụ” vậy. Nên tự biết bằng lòng với những gì chúng ta có. Muốn có tác phẩm đỉnh cao thì phải có những tư tưởng lớn, mà những tư tưởng lớn thì phải dựa trên một nền triết học lớn, một nền tảng nhân văn lớn, một nền tảng văn hóa lớn, một nền tảng tri thức lớn. Những phẩm tính đó, chúng ta còn khuyết vắng rất nhiều. Vậy thì phải chờ đợi. Mà chờ đợi để hi vọng cũng là một hạnh phúc của con người.
Nhà thơ Phạm Khải: Cụm từ “tác phẩm đỉnh cao” hiện đang được nhắc tới nhiều, với hàm ý nền văn học nghệ thuật của chúng ta còn nhiều khuyết hụt, còn thiếu “tác phẩm đỉnh cao”. Tôi không thích dùng cụm từ này. Nghe nó rất chung chung, thậm chí là… mù mờ. Nên nhớ, “đỉnh cao” với người mới chập chững vào nghề rất khác với “đỉnh cao” trong quan niệm của những nhà văn bậc thầy, đã trải qua cả một đời cầm bút. Tương tự vậy là cách nói “Chúng ta chưa có tác phẩm xứng tầm thời đại”. Thế nào là “tầm thời đại”? Thay vì những cách nói ấy, nên nói giản dị, cụ thể hơn, kiểu như “Chúng ta chưa có tác phẩm phản ánh được sâu sắc, chân thực, sinh động cuộc sống, chiến đấu của nhân dân ta trong mấy cuộc kháng chiến vừa qua”, hoặc “chưa lột tả được một cách sâu sắc, mãnh liệt sự biến động về tâm lý của con người trong cuộc sống đương đại…”… thì dễ hình dung và dễ có hướng phấn đấu hơn.
PV: Trong các cuộc kháng chiến trường kì của dân tộc, văn học về đề tài người lính, chiến tranh cách mạng và an ninh và bình yên cuộc sống, chúng ta đã có được những tác phẩm xứng tầm?
![]() |
| Nhà thơ Phạm Khải. |
Nhà thơ Phạm Khải: Chúng ta làm được một số điều. Và đã có những tác phẩm ít nhiều ghi được dấu ấn. Còn nói là “xứng tầm” hay chưa thì phải nói ngay là chưa xứng tầm. Nói một cách dễ hiểu là thế này: Thế giới rất ngạc nhiên, phải nói là rất kinh ngạc về những chiến tích mà chúng ta làm được, trong đó có chiến tích của các lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam. Họ không hiểu vì sao chỉ với một lực lượng như thế, chúng ta lại có thể làm nên chiến thắng như vậy. Trong khi, đọc tác phẩm mà các nhà văn của chúng ta đã viết, chúng ta chưa lý giải được điều này một cách triệt để, trọn vẹn đâu. Chẳng qua hiện nay, nhiều cựu chiến binh của mấy cuộc kháng chiến thần thánh vừa qua vẫn còn đang hiện diện với chúng ta. Họ vừa là nhân chứng sống, vừa là nguồn tư liệu trực tiếp giúp thế hệ hậu sinh hiểu thêm về cuộc chiến. Nhưng thử hỏi, nếu mai này, họ khuất bóng cả thì tình hình sẽ như thế nào? Đó chính là một khoảng trống rất lớn mà các nhà văn hôm nay và cả mai này phải tìm cách lấp đầy…
Nhà LLPB Bùi Việt Thắng: Đánh giá sự vật, theo tôi, phải có quan điểm lịch sử - cụ thể. Chẳng hạn, trước đây trong hoàn cảnh khó khăn, khẩu hiệu của chúng ta là phấn đấu “ăn no mặc ấm”. Nay nếu vẫn đề cao khẩu hiệu đó thì sẽ tụt hậu, mà phải là phấn đấu “ăn ngon mặc đẹp”. Trong hoàn cảnh chiến tranh, đúng ra là văn học cũng ít nhiều phải hi sinh mình, để góp vào thắng lợi chung của dân tộc. Chúng ta đã có những tác phẩm kịp thời, đã có sức mạnh động viên cổ vũ người đi chiến đấu cũng như người ở hậu phương. Vì thế chúng ta chỉ chủ yếu viết về phẩm tính anh hùng, cái đẹp cái cao cả của đời sống và con người. Những tác phẩm được coi là thành công viết trong giai đoạn khói lửa chiến tranh có cái sức mạnh của vũ khí tinh thần. Thời kì đó các nhà văn hành động theo phương châm “sống đã rồi hãy viết”
PV: Có người đổ lỗi: Văn học Việt Nam nói chung về đề tài người lính, chiến tranh cách mạng (cả Công an và Quân đội), sở dĩ chưa có tác phẩm đỉnh cao là do chế độ kiểm duyệt quá khắt khe của Nhà nước. Nhà văn có đồng ý với ý kiến trên?
Nhà thơ Phạm Khải: Nói vậy, xét cho cùng là ngụy biện. Trong thực tế, có nơi này nơi khác, do người “gác gôn” ở một số đơn vị báo chí, xuất bản nào đó chưa thực hiểu pháp luật cũng như chưa hiểu đặc trưng của sáng tạo nên đã có sự “quá tay” trong việc xử sự với tác phẩm của nhà văn, song không phải tất cả các nơi đều vậy. Thực tế, có những cuốn viết về cuộc chiến một cách dữ dội, với những cách nhìn không đơn giản, một chiều… đã ra đời và được giải thưởng cấp quốc gia đó thôi. Tất nhiên, dù cách phản ảnh hiện thực dữ dội đến đâu, cách nhìn cởi mở thế nào thì theo tôi, cũng không được bóp méo sự thật. Nếu nói nhà văn phải “tự kiểm duyệt” tác phẩm của mình thì chính là “tự kiểm duyệt” ở điểm ấy. Nói “chế độ kiểm duyệt của nhà nước” thì nghe hơi nặng nề, song thực tế, nước nào cũng có một chế độ kiểm duyệt như vậy. Có thể nó tồn tại một cách công khai hoặc kín đáo. Có tác phẩm sai lệch bị ngăn chặn ngay khi còn ở dạng bản thảo, tức là không được in thành sách. Có tác phẩm in xong thì bị thu hồi, hoặc bị kiện ra tòa vì tội vu cáo, bịa tạc. Nghĩa là mỗi nơi áp dụng một cách. Tôi cho rằng, cách của chúng ta thiên về “phòng” hơn “chống” và điều đó cũng có cái hay của nó. Vả chăng, là nhà văn chân chính, lẽ nào lại phải quá bận tâm về điều này. Điều quan trọng nhất là anh có đủ tâm, đủ sức, đủ tài để viết cho hay hay không mà thôi. Các cụ ta vẫn nói, cái kim trong bọc lâu ngày rồi cũng lòi ra cơ mà.
Nhà LLPB Bùi Việt Thắng: Chế độ nào, xã hội nào, cơ chế nào cũng có kiểm duyệt. Đấy là một tất yếu, nhà văn nên thông suốt tư tưởng. Nếu không nhận ra tự do là tất yếu, tất yếu đạo đức, thì nhà văn sẽ cảm thấy mất tự do. Tự do là phát khởi từ trong tâm hồn nhà văn. Giả sử Nhà nước cho nghệ sĩ tự do, cho phép nhà xuất bản tư nhân, báo chí tư nhân hoạt động, sẽ có nhiều người hoan hỉ mà nghĩ rằng khi đó nghệ thuật mới phát triển. Tôi không nghĩ thế. Tôi biết có người rất tự do ở phương trời xa, viết rất phóng bút, chẳng ai kiểm duyệt, nhưng tác phẩm của người ấy, nếu làm nghiên cứu thì cũng cần biết đôi chút. Lại có người vì thấy mất tự do trong nước, nên gửi tác phẩm ra nước ngoài để xuất bản. Tôi đã đọc của họ và thấy đôi khi xấu hổ cho nhà văn Việt Nam. Mà anh nên chú ý là, đôi khi trong lĩnh vực tinh thần, có một nghịch lí “càng cấm càng tìm cách thể hiện, phát triển”. Những văn tài Việt Nam và thế giới, theo tôi biết, không mấy bị ràng buộc vào cái gọi là “kiểm duyệt”.
PV: Hai ông có thể cho ý kiến về những mặt mạnh và chưa mạnh của văn học viết về đề tài an ninh và bình yên cuộc sống?
Nhà LLPB Bùi Việt Thắng: Mặt mạnh thì ai cũng rõ, và ai cũng cố phát huy (cảm hứng anh hùng trong tái hiện đời sống, xây dựng những điển hình con người thời đại xả thân cho lí tưởng “không có gì quý hơn độc lập tự do”, “vóc nhà thơ đứng ngang tầm chiến lũy”…). Mặt chưa mạnh thì cũng đã nhận thức ra từ lâu, nhưng cải thiện tình hình thì chậm (văn chương vẫn bị khuôn vào cái gọi là “đề tài” trong khi đề tài không quyết định tạo nên giá trị tác phẩm; thứ nữa là chúng ta hay phát động cuộc thi trong khi sáng tác là liên tục, nhà văn phải tận tâm tận lực, phải coi việc viết là “cái nghiệp” của mình, kĩ năng nghề nghiệp chưa cao để đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của công việc sáng tác…).
Nhà thơ Phạm Khải: Thay vì trả lời trực tiếp câu hỏi này, tôi xin có một đôi điều tâm sự: Là người tham gia tổ chức thực hiện tờ Văn nghệ Công an hơn chục năm nay, từ ngày nó còn là tạp chí nên tôi được tiếp xúc trực tiếp và gián tiếp (qua điện thoại) với hầu hết các cây bút hiện là cán bộ, chiến sĩ Công an có tác phẩm viết về ngành mình. Từ đó, tôi có một số nhận xét: Với những cây bút trong lực lượng, việc sáng tác của họ thường ít nhiều xuất phát từ những sự vụ xảy ra trong thực tế mà họ được trực tiếp chứng kiến. Tác giả của những sáng tác đó ngày một trẻ, yêu văn chương và muốn "một công đôi việc" - vừa thỏa mãn hứng thú sáng tác vừa hoàn thành được nhiệm vụ tuyên truyền, bởi đa phần họ đang công tác tại Phòng Công tác - Chính trị của một số Công an tỉnh, thành. Thể loại mà các cây bút này lựa chọn thường là truyện ngắn vì sức ôm chứa hiện thực của nó.
Tất nhiên, là những người yêu văn chương, họ cũng cố gắng trau chuốt sao cho nó vượt lên một bài ghi chép, phản ảnh đơn thuần, để trở thành một tác phẩm văn học thực thụ, song để làm được điều đó lại phải là những người thực sự có năng khiếu văn chương. Ở đây, tôi xin có một sự liên hệ thế này: Bên cạnh những cây bút kể trên, đề tài Công an cũng đã thu hút được không ít nhà văn tên tuổi "bên ngoài" tham gia. Nhiều truyện ngắn của các nhà văn nổi tiếng như Ma Văn Kháng, Đoàn Lê, Nguyễn Thị Thu Huệ, Y Ban, Võ Thị Xuân Hà, Sương Nguyệt Minh... đã được đăng tải trên Văn nghệ Công an. Điều đáng để các cây bút trẻ trong lực lượng Công an tham khảo là: Tuy vốn hiểu biết của các nhà văn nhắc tới trên về đời sống, chiến đấu của các cán bộ, chiến sĩ Công an có thể chưa sâu, chưa sát anh em ở dưới cơ sở, song họ lại có khả năng nắm bắt vấn đề rất nhanh nhạy. Chỉ với một đôi chi tiết thoáng qua, họ đã có thể xoáy sâu vào mổ xẻ, phân tích, khái quát thành vấn đề. Bởi vậy mà trong tác phẩm của họ, dù sự xuất hiện của người cán bộ, chiến sĩ Công an không nhiều, các sự vụ được đề cập cũng không "to tát", song tác phẩm của họ lại đem đến cho người đọc những ấn tượng sâu sắc. Ấy là chưa kể, khả năng lập tứ "có nghề" của các nhà văn cũng tạo cho câu chuyện một sức hấp dẫn, lôi cuốn. Đây là điều mà các cây bút trẻ trong lực lượng Công an cần tham khảo để từ đó, chọn cho mình một hướng khai thác hiện thực đạt hiệu quả nghệ thuật cao nhất.
PV: Xin cảm ơn hai ông về cuộc trò chuyện này


