Phòng tuyến Như Nguyệt sau một ngàn năm: Còn đâu di tích

Thứ Ba, 20/05/2008, 15:52
Phòng tuyến sông Như Nguyệt, địa danh lịch sử gắn liền với chiến thắng hiển hách của Anh hùng dân tộc Lý Thường Kiệt (1077). Cũng chính tại nơi đây, để khích dậy tinh thần chiến sỹ đánh giặc, Lý Thường Kiệt đã xướng lên bài thơ thần "Nam quốc sơn hà", như là bản Tuyên ngôn Độc lập đầu tiên của dân tộc.

Ngót cả ngàn năm đã đi qua, địa danh lịch sử gắn với những chiến công hiển hách ấy tưởng chừng sẽ mãi bền vững như sự chắc chắn vốn có của nó. Nhưng không, địa danh lịch sử này giờ đây đang phải chịu sự tàn phá ghê gớm, sự xâm phạm của chính những người dân nơi đây.

Theo sử sách, phòng tuyến Như Nguyệt được xây dựng dựa vào thế núi, sông, đồng trũng, ruộng lầy kéo dài từ Tam Đảo đến Lục Đầu Giang của tỉnh Hải Dương. Tại địa phận của tỉnh Bắc Ninh, phòng tuyến sông Như Nguyệt chạy qua huyện Yên Phong gồm các xã Tam Đa và Tam Giang có tổng chiều dài hơn 10km chạy dọc đê sông Cầu. Địa danh này là một trong những điểm diễn ra các trận đánh quyết liệt nhất giữa các cánh quân của ta dưới sự chỉ đạo của Anh hùng dân tộc Lý Thường Kiệt, góp phần tạo nên chiến thắng oanh liệt trước giặc Tống, đặt dấu mốc quan trọng cho thời kỳ thịnh trị, tự chủ của triều đình phong kiến sau gần một ngàn năm Bắc thuộc. Vậy mà giờ đây, khi chúng tôi có mặt trên chính địa danh này, huyện Yên Phong, Bắc Ninh lại khó có thể nhận ra đây từng là một địa danh hiển hách trong lịch sử.

Hai xã Tam Đa và Tam Giang của huyện Yên Phong có cả chục di tích lịch sử nằm trong quần thể di tích phòng tuyến sông Như Nguyệt được Nhà nước công nhận và xếp hạng, nhưng thật không dễ để có thể nhận thấy những di tích ấy đang hiện hữu tại nơi đây.

Miễu Thọ Đức, điểm quan trọng số một của phòng tuyến sông Như Nguyệt, theo sử sách thì cánh quân tại đây có nhiệm vụ chốt chặn những mũi tiến công đầu tiên của giặc. Vậy mà giờ đây Miễu Thọ Đức chỉ nằm gỏn gọn, hoang tàn tại khu đất hoang vu, bao quanh miếu là các lò gạch. Người ta dùng chính nguồn đất thuộc phòng tuyến xưa làm chất liệu để sản xuất. Trên hai chục lò gạch hoạt động ngày đêm, vì vậy giờ đây toàn thể khu di tích trông nham nhở như những hố bom.

Ông Phạm Ngọc Tư, một người già trong làng ngậm ngùi kể lại: "Có nhiều đoàn người nước ngoài, trong đó có cả những đoàn chuyên gia, về đây tham quan và muốn tìm hiểu trận địa dưới nước của Lý Thường Kiệt. Họ đều tỏ ra rất tiếc trước sự bảo tồn chưa đúng mức của chính quyền địa phương trước di tích thiêng liêng này". Cũng chính vì những lò gạch này mà con đê sông Cầu ngày nay, đồng thời cũng là con đường nằm trong quần thể di tích phòng tuyến trên sông Như Nguyệt bị băm vằm, xẻ nát trước sự tàn phá của hàng trăm chuyến xe ôtô mỗi ngày vào đây lấy gạch. Nạn hút cát trái phép cũng là những nguyên nhân không nhỏ khiến cho toàn bộ khu di tích này bị xuống cấp trầm trọng.

Ông Hoàng Đắc Tư, Chủ tịch xã Tam Đa cung cấp thêm, hiện tại những di vật thuộc về trận đánh giữa các cánh quân của Lý Thường Kiệt và giặc Tống xưa kia còn nằm lại rất nhiều ở đáy sông, chuyện những cát tặc thường xuyên hút lên những mũi tên đồng, lá chắn, thậm chí là cả những thanh gươm đồng thì không phải là hiếm. Chính quyền xã cũng đã thu được rất nhiều những mũi tên đồng và cả những cây giáo còn nguyên hình chưa bị mục nát vì bị chôn sâu dưới lòng sông đến hàng chục mét.

Ởã đây, người ta còn ngang nhiên xây nhà trên đất đền. Cách Miễu Thọ Đức chưa đầy 1km, di tích lịch sử Đền Phấn Động lại phải chịu một số phận khác. Nhà nước đã xếp hạng di tích này thuộc tầm cỡ quốc gia từ năm 1980. Song ngôi đền này giờ đây chỉ năm ép mình khiêm tốn xung quanh các hộ dân. Sự việc này xảy ra cũng chỉ vì sự tính toán thiếu chính xác của chính quyền địa phương khi năm 1998 xã đã tiến hành di dân vào khu vực này để xây dựng hệ thống thủy lợi. Khi nhận thấy sự việc và cho cán bộ xuống nói chuyện với dân thì đã quá muộn. Bởi các hộ dân nơi đây đã được cấp sổ đỏ và hơn thế nữa mỗi khu đất họ được cấp giờ có giá  cả trăm triệu.

Có lẽ vì vậy mà khi chúng tôi đi theo sự dẫn đường của cậu học sinh lớp 11, người xã Tam Đa, buồn thay cậu học sinh này chỉ biết đường đưa tôi lên con đê mà người dân nơi đây vẫn thường gọi là đê sông Cầu. Cậu học sinh hoàn toàn không biết quê mình chính là mảnh đất đầy hào khí với “bản tuyên ngôn độc lập”: "Nam quốc sơn hà"

Quốc Hưng
.
.
.