Nhà thơ Võ Văn Trực: Người của làng quê
Ngay lúc này đây, khi đang gõ những dòng chữ này, trước mặt tôi là mấy cuốn sách ông tặng với nét chữ nguệch ngoạc, lên xuống liêu xiêu, tôi cứ bị ám ảnh suy nghĩ về thời gian. Thời gian cho chúng ta tất cả nhưng cũng lấy đi của chúng ta tất cả, để rồi đến một ngày lại trở về con số không. Nhưng thôi, đó là quy luật của trời đất, là vòng quay sắc sắc không không của cái vũ trụ vô biên này, mà thân phận con người thì quá nhỏ bé. Đâu có ai làm thay đổi được điều đó. Tất cả rồi cũng chỉ là huyễn giả vô thường mà thôi. Nhưng tôi lại tin có một điều sẽ còn mãi. Và, sau khi đọc những cuốn sách ông đã tặng, với một chút chiêm nghiệm về con người ông, tôi lại càng tin điều đó. Cái điều còn lại đó chính là phần Người trong mỗi Con Người. Cái phần Người sẽ định vị chúng ta ở một chấm nhỏ xíu nào đó trong vũ trụ bao la này.
Quay ngược thời gian với hơn hai mươi năm về trước, khi đó tôi đang là một cậu học sinh tiểu học, ông vẫn thường đạp xe đến nhà tôi chơi. Cái căn nhà cấp bốn dột nát chật hẹp của gia đình tôi hồi đó lúc nào cũng ấm áp bởi những người bạn văn chương của bố tôi. Còn nhớ, hôm nào có ông đến chơi là bố tôi lại bảo mẹ ra chợ mua một rổ khoai lang về luộc và không thể thiếu một bát cà muối giòn tan. ông bảo khoai lang ăn với cà pháo là nhất, nó gợi cho ông nhớ về quê hương.
Phải rồi, với những người con xứ Nghệ như ông và bố tôi thì món ăn dân dã của quê hương còn là món ăn mang tính tinh thần. Trong mỗi gia đình ở xứ Nghệ, nhà nào cũng phải có một vại cà muối đặt ở góc bếp hay góc sân. Quanh năm, trong mỗi bữa cơm đều không thể thiếu bát cà muối. Có thể nói đó vừa là món ăn bình dân nhưng cũng vừa là món ăn quý tộc của người Nghệ. Bên rổ khoai lang với bát cà pháo, ngoài chuyện văn chương, ông rất hay kể những câu chuyện dân gian ở quê ông cho mọi người cùng nghe, đến bây giờ tôi vẫn còn nhớ, như chuyện Cố Bợ, chuyện núi Hai Vai… mà sau này ông đều viết thành sách. Ông có giọng nói nhẹ nhàng rủ rỉ, ấm áp khiến cho người nghe phải lắng lại cùng với câu chuyện của mình. Mỗi khi ông đến chơi là tôi lại sà vào lòng và thế nào cũng nhận được vài cái véo yêu của ông.
Mới đây, khi tôi đến thăm ông tại nhà riêng ở khu Yên Hoà, một ngôi nhà sang trọng có thang máy, ông vẫn nhanh chóng nhận ra tôi. ông hỏi thăm từng người trong gia đình, thậm chí ông hỏi thăm cả những người mà ông đã từng gặp ở nhà tôi trước đây. Bản chất con người ông là vậy, sâu sắc và tình cảm.
Bên cạnh chiếc giường của ông là bàn làm việc, cuốn sách "Địa chí văn hóa dân gian Nghệ Tĩnh" của Nguyễn Đổng Chi được đặt ngay ngắn, ở giữa có kẹp một tờ giấy để đánh dấu trang sách mà ông đang đọc. Còn ông thì nhìn xa xăm ra ngoài khung cửa sổ của căn phòng ở tầng hai. Cuộc sống hàng ngày của ông giờ đây hầu như chỉ vỏn vẹn trong căn phòng nhỏ và ô cửa sổ để nhìn ra thế giới bên ngoài. Phía bên trong khung cửa sổ là một cuộc sống tĩnh lặng nhưng đầy chiêm nghiệm. Còn bên ngoài kia là một thế giới sôi động, đầy sắc mầu không ngừng trôi. Đó là một thế giới có nhiều yêu thương nhưng cũng đầy bất trắc mà ông đã từng trải nghiệm bằng cả máu và nước mắt với gần trọn đời mình.
Dường như mấy chục năm qua, gương mặt ông không có nhiều thay đổi, chỉ có mái tóc là bạc trắng, nay vì ốm yếu nên cắt ngắn cho gọn. Thật kì lạ, gương mặt hồn hậu của ông luôn tạo cho người đối diện một cảm giác tin cậy và gần gũi nhưng luôn ẩn chứa một nỗi buồn xa xăm. Một nỗi buồn trong suy tưởng mà ông cất giữ bằng chiếc khoá thời gian.
Bìa cuốn tiểu thuyết “Vết sẹo và cái đầu hói” của nhà thơ Võ Văn Trực. |
Cũng phải thôi, cuộc đời này có ai là không có nỗi buồn. Và tôi chợt nhớ đến một câu hát của Trịnh Công Sơn: "Tin buồn từ ngày mẹ cho mang nặng kiếp người". Có thể với những tâm hồn nghệ sĩ thì nỗi buồn ám ảnh nhiều hơn, nó còn là nguồn nuôi dưỡng cảm hứng sáng tác cho họ, bởi ai đó cũng đã nói rằng, nỗi buồn là mẹ đẻ của thi ca. Tôi cũng tin rằng, nếu ai đó sống một cuộc đời không biết đến buồn đau thì chắc hẳn đó là một cuộc đời rất tẻ nhạt. Còn với nhà thơ Võ Văn Trực, ngay cả khi cười, ta vẫn có thể thấy nỗi buồn phảng phất trên gương mặt ông.
Trong mỗi một kiếp người có biết bao buồn đau, mất mát mà ta phải trải qua. Và trong cái xã hội mà chúng ta đang từng ngày phải đương đầu và nếm trải này có biết bao những điều ngang trái, bất an đang diễn ra, đang rình rập từng phút từng giây khiến ta phải lo âu, suy nghĩ. Huống chi với một trái tim đa sầu đa cảm như nhà thơ Võ Văn Trực không thể không nhức buốt, không rung lên da diết theo từng nhịp đập đó của cuộc đời. Những nỗi buồn cứ chất chứa trong ông và ông cất giấu. Những nỗi buồn không làm ông gục ngã. Ông cũng không lãng quên chúng mà đem khâu nó lại, bện chặt nó lại như hành trang để tiếp tục đương đầu với cuộc đời, cùng buồn cùng vui trên những chặng đường tiếp theo. Và mỗi khi một mình đối diện với nỗi buồn, ông lại tìm đến thơ, như tìm đến một người tri kỉ, thuỷ chung trọn đời. "Cuộc đời dở chuột dở dơi/ Nửa bóng tối, nửa mặt trời nhá nhem/ Hai tờ sách mở hai bên/ Tôi nằm ở giữa khâu bền sợi đau" (Nhà tôi).
Trong lúc trò chuyện, tôi bảo ông kể về những thăng trầm trong cuộc đời, bởi tôi muốn có những chi tiết để làm nên thân phận của một nhà thơ như ông, cho bài viết của mình. Ông chỉ lặng yên, nhìn ra ngoài khung cửa. Bỗng ông quay lại nhìn tôi, rồi lại rủ rỉ kể những câu chuyện về quê hương, về tuổi thơ của ông. Trong câu chuyện đó tôi nhìn thấy ánh mắt ông sáng lên, giọng nói của ông linh hoạt hẳn lên, chốc chốc lại nở một nụ cười. Và cứ như thế ông say sưa kể lại những kí ức của sáu, bảy chục năm về trước.
Tôi chợt hiểu ra rằng khi con người ta đã bước vào cái tuổi gần đất xa trời thì mọi kí ức đều có thể trở thành vô giá. Khi đứng trước cái ranh giới đó thì ta phải biết cân bằng chính mình. Kể từ phút đó tôi không hỏi thêm gì nữa mà chỉ ngồi nghe ông kể lại những chuyện gì mà ông ghi nhớ, muốn chia sẻ với người khác. ông bảo, quê hương chính là thượng nguồn của mọi cảm xúc trong suốt cuộc đời cầm bút của mình.
Trong câu chuyện, ông đã đưa tôi về với cái làng Hậu Luật, Diễn Châu, Nghệ An, mảnh đất chôn nhau cắt rốn của ông. ở cái làng Hậu Luật đó có ngôi đền Bạch Y, có đình Trung, có ngôi mộ cổ rộng cả mẫu đất của cụ Hùng Lễ Bá Võ Phúc Tuy, một danh tướng của Lê Lợi, người dân làng ông vẫn gọi là mộ cụ Hùng, có cánh đồng Lao, có đồi Di Lĩnh, có cổng làng rêu phong, có con đường gạch mà ngày trước cụ nghè đã bái tổ vinh quy. ông lại kể cho tôi nghe về ngọn núi Hai Vai, con sông Bùng trong xanh với bao truyền thuyết, kể về cây đa, cây muỗm của làng Hậu Luật có hàng mấy trăm năm tuổi.
Ông say sưa kể về người bạn nối khố từ thuở mục đồng có tên là Bá; những đêm theo chúng bạn đi hát đối, hát dặm trong làng và ở các làng lân cận. ông bảo, ông mê mẩn những làn điệu dân ca, những câu hò, vè, ca dao, tục ngữ quê mình. Mê đến nỗi, khi được địa phương cho đi học ngành ngân hàng ở Trung Quốc, ông đã từ chối vì không muốn xa quê hương, không muốn phải rời xa những làn điệu dân ca, hò vè mà ông vẫn nghe, vẫn hát hàng ngày.
Chỉ cách đây khoảng 3 năm thôi, năm nào ông cũng về quê ba bốn lần, sau này yếu thì mỗi năm một lần. Cho đến hồi đầu năm nay, khi bị tai biến, ông không còn đủ sức để được về với làng Hậu Luật thân yêu của ông nữa, điều đó làm cho ông buồn và day dứt. ông kể, cách đây độ sáu, bảy năm, ông mua chục cái quần soóc và chục cái mũ lưỡi chai, để mang về quê tặng mỗi người bạn từ thuở chăn trâu cắt cỏ một bộ. Rồi, họ cùng mặc bộ đồng phục đó để gặp gỡ nhau, đi chơi khắp xóm làng, vui vẻ hồn nhiên như thuở thiếu thời vậy. Chính vì nặng nợ với quê hương như vậy mà hình ảnh quê hương cứ đi vào trong các tác phẩm của ông một cách tự nhiên và mộc mạc. Bạn bè văn chương gọi ông là người có nhiều trang viết về quê hương nhất trong Hội Nhà văn Việt
"Mẹ mới khuất mười năm, không còn mộ
Con đi tìm, giẫm nát cỏ đồng quê
Nén hương khấn mười năm không tắt lửa
Mẹ nơi đâu? Xin hãy gọi con về".
Trong chốc lát, ông im lặng nhìn tôi, rồi lại nhìn quanh căn phòng của mình như muốn kiếm tìm một điều gì đó. Lúc này tôi mới để ý, bên dưới tủ sách đồ sộ của ông, có rất nhiều báo cũ, tài liệu, bản thảo được ông xếp thành hai hàng dài, ngay ngắn trên nền gạch. Những tờ báo cũ, những trang bản thảo bằng giấy pơ luya đã ố màu thời gian vẫn được ông cất giữ nâng niu. Rồi ông đứng dậy, từ từ đi lại cái tủ sách. Tôi định dìu ông lại đó, ông bảo: "Để bác tự đi được". Ông rút ra mấy quyển sách đem lại tặng tôi.
Có thể nói, nhà thơ Võ Văn Trực có một sức lao động rất đáng nể. Kể từ khi nghỉ hưu ông đã sáng tác hàng mấy trăm bài thơ, độ dăm cuốn tiểu thuyết, ngoài ra còn có những cuốn khảo cứu, sưu tầm về văn hoá dân gian. Đọc tác phẩm của Võ Văn Trực, ta có thể thấy được phần nào con người ông, thời đại ông đang sống ở trong đó. Những đau thương mất mát, vui buồn trong đời ông, những ngang trái bất công của xã hội cứ ăm ắp trong tác phẩm của ông đã chạm đến trái tim người đọc.
Với hàng nghìn trang sách viết về quê hương, viết về người thân ruột thịt, về bạn bè ở cái làng Hậu Luật có lẽ nên gọi ông là Người của làng. Bởi trái tim ông luôn hướng về mảnh đất quê hương, vui buồn vì nó. Ngay cả khi đau yếu này ông vẫn luôn nghĩ về nơi ấy. Và tôi xin được kết thúc bài viết này bằng câu thơ của ông:
"Tình cốt nhục, nghĩa lân bang
Quý hơn gấp triệu lạng vàng cầm tay"
Quả thực định viết về nhà thơ Võ Văn Trực đã lâu, nhưng cứ ngồi vào bàn rồi tôi lại đứng dậy, bởi buổi gặp hôm đó giữa tôi và ông để có thêm chi tiết cho bài viết này cũng thật ngắn ngủi. Sau một thời gian bị tai biến, sức khỏe của ông yếu đi, không thể tiếp khách lâu được. Còn tôi thì cũng không dám hỏi nhiều vì sợ ông mệt. |