Ba hiện vật Chăm được đề nghị công nhận là bảo vật quốc gia
Được biết, đài thờ Mỹ Sơn E1 có niên đại vào khoảng thế kỷ thứ VII - VIII, là hiện vật gốc độc bản, tiêu biểu cho loại hình đài thờ tại Khu di tích Chămpa ở Mỹ Sơn. Đài thờ Mỹ Sơn E1 là đài thờ duy nhất còn lại tương đối nguyên vẹn, là một cứ liệu quan trọng cho việc nghiên cứu các vấn đề văn hóa, tín ngưỡng, điêu khắc và kiến trúc của di tích Mỹ Sơn nói riêng và Chămpa nói chung.
Đây cũng là đài thờ Chămpa duy nhất được tìm thấy có miêu tả nhiều nhân vật, cảnh sinh hoạt, thiên nhiên, động vật... là căn cứ để nghiên cứu về đời sống tâm linh, đời sống xã hội của Chămpa cổ đại, đặc biệt là về quan hệ giao lưu văn hóa giữa các nước trong khu vực. Cách thức điêu khắc trên đài thờ Mỹ Sơn E1 được các nhà nghiên cứu nghệ thuật xem là tiêu biểu cho một phong cách ổn định sớm nhất trong lịch sử phát triển nghệ thuật điêu khắc Chămpa, gọi là phong cách Mỹ Sơn E1.
Đài thờ Mỹ Sơn E1 (Niên đại: Thế kỷ VII-VIII; chất liệu: sa thạch; nguồn gốc: Mỹ Sơn - Quảng Nam). và tượng Bồ tát Tara (tượng Phật Đồng Dương) bằng đồng là hiện vật của Bảo tàng Điêu khắc Chăm Đà Nẵng. |
Đài thờ Trà Kiệu có niên đại vào khoảng thế kỷ thứ VII - VIII, là hiện vật gốc độc bản, tiêu biểu cho sự tồn tại của một khu kinh thành và thờ tự của Chămpa cách đây hơn 1.000 năm ở Trà Kiệu. Đặc biệt, hiện vật đài thờ này còn giữ được nguyên vẹn bốn mặt, trên đó có chạm khắc thể hiện hoàn chỉnh một chủ đề trong thần thoại, là cơ sở quan trọng cho các chuyên gia khi nghiên cứu, so sánh về tín ngưỡng, phong cách nghệ thuật Chămpa.
Và tượng Bồ tát Tara có niên đại vào thế kỷ thứ IX, là hiện vật gốc độc bản. Theo kết quả khai quật khảo cổ, vào khoảng cuối thế kỷ thứ IX, tại Đồng Dương (Quảng Nam) đã có một phật viện lớn. Các di tích nền móng cho thấy đây là phật viện lớn nhất của Vương quốc Chămpa.
Văn bia tìm thấy ở Đồng Dương có nói đến việc vua Chămpa Indravarman II đã cho xây dựng ở đây một phật viện và một đền thờ để thờ Bồ tát Laksmindra Lokesvara vào năm 875.
Hiện vật này là tượng Bồ tát bằng đồng, tiêu biểu cho việc thờ Bồ tát tại Phật viện Đồng Dương. Đặc biệt, hiện vật này được đúc hoàn chỉnh, không có dấu vết khuôn đúc với một kỹ thuật đặc biệt (hiện nay, các nhà nghiên cứu vẫn chưa xác định được).
Một giả thuyết cho đây là kỹ thuật đúc bằng khuôn sáp nay đã thất truyền, sau đó được gia công bằng kỹ thuật chạm khắc. Đặc biệt, hiện vật có những phần khắc lõm để nạm ngọc và kim loại quý (trên trán, lông mày, hai tròng mắt). Các chi tiết trang trí và hình thể được các nhà nghiên cứu xem là đặc trưng tiêu biểu của phong cách Đồng Dương…