Trò chuyện Chủ nhật

Tạo đột phá trong quản lý dân cư, tiết kiệm chi phí cho ngân sách Nhà nước

Chủ Nhật, 10/09/2023, 07:28

Hàng loạt nội dung quan trọng liên quan đến dự án Luật Căn cước được Thiếu tướng Phạm Công Nguyên, Cục trưởng Cục Pháp chế và Cải cách hành chính, tư pháp, Bộ Công an giải đáp trong cuộc trò chuyện với PV Báo CAND.

Những thay đổi thông tin trên thẻ căn cước có tác động như thế nào đến công tác quản lý dân cư, tích hợp thông tin vào thẻ căn cước mang lại những lợi ích gì cho cơ quan quản lý nhà nước và người dân, ý nghĩa nhân văn sâu sắc của quy định cấp căn cước cho người gốc Việt Nam… hàng loạt nội dung quan trọng liên quan đến dự án Luật Căn cước đã được Thiếu tướng Phạm Công Nguyên, Cục trưởng Cục Pháp chế và Cải cách hành chính, tư pháp, Bộ Công an giải đáp trong cuộc trò chuyện với PV Báo CAND.

Tạo đột phá trong quản lý dân cư, phục vụ chuyển đổi số, tiết kiệm chi phí cho ngân sách Nhà nước -0
Thiếu tướng Phạm Công Nguyên.

PV: Xin ông cho biết, vì sao cơ quan chủ trì soạn thảo lại đổi tên dự án Luật Căn cước công dân thành Luật Căn cước?

Thiếu tướng Phạm Công Nguyên: Việc cơ quan chủ trì soạn thảo đổi tên Luật Căn cước công dân (CCCD) thành Luật Căn cước là nhằm bảo đảm thể hiện đầy đủ chính sách sửa đổi, bổ sung tại dự án Luật lần này (bổ sung điều chỉnh đối với đối tượng là người gốc Việt Nam, căn cước điện tử), phù hợp với phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng và nội dung dự thảo Luật. Đồng thời, thể hiện đúng nội hàm của công tác quản lý căn cước là nhằm mục đích định danh, xác định rõ danh tính của từng con người cụ thể, phân biệt cá nhân này với cá nhân khác cũng như đáp ứng yêu cầu quản lý căn cước ở nước ta trong giai đoạn hiện nay là phải quản lý đối với toàn bộ xã hội, mọi người dân sinh sống tại Việt Nam; bảo đảm các quyền của con người, quyền công dân theo quy định của Luật.

Việc lược bỏ cụm từ "công dân" trong tên Luật không tác động đến yếu tố chủ quyền quốc gia, vấn đề quốc tịch cũng như địa vị pháp lý của công dân. Nội dung Luật Căn cước cũng đã quy định phân biệt việc cấp căn cước cho công dân Việt Nam và cấp giấy chứng nhận căn cước cho những người chưa có đầy đủ các quyền như công dân Việt Nam.

PV: Thông tin trên thẻ căn cước sẽ có những thay đổi gì so với hiện nay, thưa ông?

Thiếu tướng Phạm Công Nguyên: Theo quy định tại dự thảo Luật thì thông tin trên bề mặt thẻ căn cước sẽ có một số thay đổi. Theo đó, tại Điều 19 dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung theo hướng bỏ in vân tay trên mặt thẻ, dòng chữ "Căn cước công dân" trên mặt thẻ thay bằng "Căn cước"; "Quê quán" thay bằng "Nơi đăng ký khai sinh/Nơi sinh"; "Nơi thường trú" thay bằng "Nơi cư trú"; "Chữ ký của người cấp thẻ" thành dòng chữ "Nơi cấp: Bộ Công an". Tuy nhiên, chúng tôi khẳng định những thay đổi đó sẽ không có bất cứ ảnh hưởng nào tới quá trình tham gia các thủ tục hành chính của người dân.

PV: Những thay đổi này sẽ có tác động như thế nào trong thực tiễn quản lý dân cư?

Thiếu tướng Phạm Công Nguyên: Việc thay đổi, cải tiến như trên nhằm tạo thuận lợi hơn cho người dân trong quá trình sử dụng thẻ căn cước, hạn chế việc phải cấp đổi thẻ căn cước và bảo đảm tính riêng tư của người dân. Các thông tin căn cước của người dân cơ bản sẽ được lưu trữ, khai thác, sử dụng thông qua chíp điện tử trên thẻ căn cước. Đơn cử như việc chỉnh lý thông tin "nơi thường trú" thành "nơi cư trú" in trên thẻ căn cước là để phù hợp với thực tiễn vì nhiều người hiện nay chỉ có nơi tạm trú, nơi ở hiện tại hoặc không có nơi thường trú, nơi tạm trú. Với quy định này thì với tất cả người dân Việt Nam đều sẽ đủ điều kiện để được cấp thẻ căn cước; đều được bảo đảm quyền lợi khi có được giấy tờ tuỳ thân để thực hiện thủ tục hành chính, giao dịch dân sự theo nhu cầu. Việc cấp đổi thẻ căn cước khi có thay đổi thông tin về nơi cư trú được thực hiện theo nhu cầu của người dân (không bắt buộc); trong khi chưa có điều kiện thực hiện thủ tục cấp đổi thẻ căn cước thì người dân có thể lựa chọn việc tích hợp thông tin vào căn cước điện tử (đây là tiện ích miễn phí trên ứng dụng VNeID) để thực hiện thủ tục hành chính, giao dịch dân sự, kinh tế, thương mại khác.

Bên cạnh đó, cũng phải khẳng định lại tại Điều 46 dự thảo Luật đã quy định, thẻ CCCD đã được cấp trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành vẫn có giá trị sử dụng đến hết thời hạn được ghi trong thẻ, được cấp đổi sang thẻ căn cước khi công dân có yêu cầu. Chứng minh nhân dân còn thời hạn sử dụng thì được sử dụng đến hết ngày 31/12/2024. Các loại giấy tờ có giá trị pháp lý đã phát hành có sử dụng thông tin từ chứng minh nhân dân, thẻ CCCD vẫn giữ nguyên giá trị sử dụng. Thẻ CCCD quy định tại các văn bản quy phạm pháp luật trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành có giá trị như thẻ căn cước được quy định tại Luật này. Cơ quan quản lý nhà nước không được quy định thủ tục riêng về thay đổi, điều chỉnh thông tin về chứng minh nhân dân, thẻ CCCD trong giấy tờ đã cấp.

Như vậy, việc đổi tên thẻ CCCD thành thẻ căn cước sẽ không tác động đến chi ngân sách Nhà nước, chi phí của xã hội và vẫn đáp ứng được các yêu cầu trong quản lý dân cư.

Tạo đột phá trong quản lý dân cư, phục vụ chuyển đổi số, tiết kiệm chi phí cho ngân sách Nhà nước -0
Cán bộ Công an TP Hà Nội đến tận nhà làm thủ tục cấp căn cước công dân cho người dân.

PV: Dự thảo Luật đã bổ sung quy định về việc tích hợp một số thông tin có tính ổn định, được sử dụng thường xuyên của người dân ngoài thông tin trong Cơ sở dữ liệu căn cước vào thẻ căn cước. Việc tích hợp này sẽ đem lại những lợi ích gì cho cơ quan quản lý và người dân, thưa ông?

Thiếu tướng Phạm Công Nguyên: Đây là một trong bốn chính sách xây dựng Luật và với việc quy định về tích hợp một số thông tin ngoài thông tin trong Cơ sở dữ liệu căn cước vào thẻ căn cước là để cụ thể hoá nhiệm vụ tại Đề án số 06, nhằm phục vụ mục tiêu đơn giản hoá giấy tờ, thủ tục cho người dân, hướng tới mục tiêu xây dựng Chính phủ số, kinh tế số, công dân số.

Hiện nay, thẻ căn cước gắn chíp đã được sử dụng trong đăng ký khám, chữa bệnh theo thẻ Bảo hiểm y tế. Bộ Công an cũng đang triển khai các thiết bị đầu đọc mã QR Code trên thẻ căn cước phục vụ các điểm tiếp người dân giải quyết các thủ tục hành chính, góp phần rút ngắn quy trình, số hóa dữ liệu ở một số địa phương. Qua triển khai thực hiện đã cho thấy hiệu quả tốt, đem lại nhiều thuận lợi cho người dân và cơ quan, tổ chức.

Việc tích hợp thông tin vào thẻ căn cước sẽ giúp cơ quan nhà nước giảm chi phí giải quyết thủ tục hành chính cho cá nhân, tổ chức khi sử dụng thẻ căn cước có gắn chíp đã được tích hợp các thông tin có liên quan đến lĩnh vực mình quản lý; không phải chi cho hoạt động in, sản xuất các giấy tờ cấp cho người dân (nếu người dân không có nhu cầu hoặc chỉ cần bản điện tử của giấy tờ đó). Cơ quan có thẩm quyền khi giải quyết thủ tục hành chính cho người dân sẽ cập nhật, bổ sung kết quả giải quyết vào cơ sở dữ liệu do mình quản lý và trả kết quả điện tử cho người dân. Cơ quan quản lý căn cước sẽ khai thác thông tin người dân trong các cơ sở dữ liệu quốc gia, cơ sở dữ liệu chuyên ngành để tích hợp thông tin người dân có trên các cơ sở dữ liệu này vào thẻ căn cước theo yêu cầu của cơ quan nhà nước hoặc đề nghị của người dân. Do vậy, cơ quan, tổ chức không phải tốn nhiều thời gian để kiểm tra, xác minh thông tin, giấy tờ do người dân cung cấp khi giải quyết các thủ tục hành chính, cung cấp dịch vụ hành chính công; giảm nhân lực để giải quyết thủ tục hành chính và quản lý hệ thống hồ sơ giấy tờ của người dân; phù hợp với xu hướng chuyển đổi số, ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động quản lý nhà nước.

Đối với tổ chức, doanh nghiệp và người dân không phải tốn thời gian, công sức, chi phí để thực hiện việc trích lục, sao y, chứng thực, công chứng các loại giấy tờ của bản thân; giảm chi phí trong giải quyết các thủ tục hành chính, kê khai nhiều loại giấy tờ khác nhau...; không phải bảo quản, mang theo nhiều loại giấy tờ khác nhau khi cần sử dụng để thực hiện thủ tục hành chính, giao dịch dân sự hay các hoạt động khác cần phải xuất trình giấy tờ cá nhân.

Trường hợp cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân không đầu tư thiết bị chuyên dụng để đọc thông tin tích hợp trong thẻ căn cước thì có thể lựa chọn các cách thức khác để khai thác thông tin của người dân (bao gồm cả thông tin tích hợp) qua kết nối, chia sẻ và khai thác thông tin trong cơ sở dữ liệu quốc gia, cơ sở dữ liệu chuyên ngành, khai thác qua cổng dịch vụ công… (đây là cách phổ biến, tiết kiệm, sẽ phát triển, mở rộng trong thời gian tới).

PV: Quy định về cấp căn cước cho người dưới 14 tuổi theo dự án Luật sẽ tiết kiệm chi phí cho ngân sách Nhà nước như thế nào so với quy định hiện hành thưa ông?

Thiếu tướng Phạm Công Nguyên: Chính sách về cấp thẻ căn cước cho người dưới 14 tuổi đã được Chính phủ thống nhất thông qua trong đề nghị xây dựng Luật. Theo đó, tại Điều 19 dự thảo Luật đã quy định rõ người được cấp thẻ căn cước là công dân Việt Nam. Người từ đủ 14 tuổi trở lên phải thực hiện thủ tục cấp thẻ căn cước. Người dưới 14 tuổi thực hiện thủ tục cấp thẻ căn cước theo nhu cầu.

Việc cấp thẻ căn cước cho người dưới 14 tuổi là để bảo đảm quyền, lợi ích chính đáng của họ và phục vụ công tác quản lý nhà nước; phát huy giá trị, tiện ích của thẻ căn cước trong hoạt động của Chính phủ số, xã hội số. Nên với quy định như vậy thì sẽ tiết kiệm rất lớn chi phí cho ngân sách Nhà nước so với các quy định hiện hành.

Trong quá trình xây dựng Luật, Bộ Công an đã rà soát, đánh giá và thấy rằng việc cấp thẻ căn cước cho người dưới 14 tuổi nếu thực hiện được thì sẽ giảm được các chi phí cho người dân và mang lại nhiều lợi ích kinh tế - xã hội khác. Ví dụ như chúng ta không tốn chi phí trong cấp sổ tiêm chủng (10.000 đồng/sổ), sổ khám chữa bệnh (10.000 đồng/sổ/cơ sở y tế; trung bình 1 trẻ khám từ 2-3 cơ sở y tế), thẻ bảo hiểm y tế (5.000 đồng/thẻ/năm), thẻ học sinh (5.000 đồng/thẻ/năm học/người), chi phí… (với số công dân dưới 14 tuổi là 19 triệu người thì ước tính số tiền mà nhà nước và xã hội phải chi là khoảng 2.000 tỷ đồng chỉ với một số ít giấy tờ liệt kê nêu trên). Ngoài ra, người dân còn tiết kiệm chi phí sao y, chứng thực, công chứng giấy tờ (từ 2.000-10.000 đồng/trang). Trong khi đó, chi phí sản xuất 1 thẻ CCCD là 48.000 đồng; chi phí sản xuất thẻ CCCD cho các công dân dưới 14 tuổi (trường hợp tất cả 19 triệu người dưới 14 tuổi đều có nhu cầu cấp) là khoảng hơn 900 tỷ đồng. Chí phí cấp đổi, cấp lại cho người dưới 14 tuổi nếu bị mất, đổi theo nhu cầu do công dân thanh toán, không tốn ngân sách Nhà nước.

Do vậy, hiệu quả về lợi ích kinh tế - xã hội đem lại khi thực hiện quy định này là rất lớn.

PV: Một trong những nội dung được dư luận quan tâm là dự thảo Luật đề xuất cấp giấy chứng nhận căn cước cho người gốc Việt đang sinh sống tại Việt Nam nhưng chưa xác định được quốc tịch. Ông cho biết ý nghĩa của chính sách này?

Thiếu tướng Phạm Công Nguyên: Tại khoản 10 Điều 3 và Điều 5 dự thảo Luật Căn cước quy định rõ việc cấp giấy chứng nhận căn cước cho người gốc Việt Nam đang sinh sống tại Việt Nam nhưng chưa xác định được quốc tịch. Theo đó, người gốc Việt Nam là người đã từng có quốc tịch Việt Nam hoặc có ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, cha đẻ, mẹ đẻ là công dân Việt Nam hoặc đã từng có quốc tịch Việt Nam, nhưng chưa xác định được quốc tịch.

Việc cấp giấy chứng nhận căn cước cho người gốc Việt Nam đang sinh sống tại Việt Nam nhưng chưa xác định được quốc tịch sẽ tạo cơ sở pháp lý cho công tác quản lý nhà nước được chặt chẽ; giải quyết được các vấn đề còn tồn tại liên quan đến yếu tố lịch sử, chiến tranh để quản lý, giải quyết bất cập trong công tác quản lý dân cư; bảo đảm cơ chế để họ có thể tham gia vào các giao dịch dân sự, dịch vụ công, nhất là các dịch vụ thiết yếu bảo đảm cuộc sống. Mặt khác, việc cấp giấy chứng nhận căn cước và quản lý người gốc Việt Nam còn có ý nghĩa nhân văn sâu sắc, góp phần bảo đảm quyền lợi của người gốc Việt Nam (trong đó bao gồm cả những trẻ em là con của người gốc Việt Nam), những người yếu thế trong xã hội (phần nhiều người gốc Việt Nam là người di cư, dân tộc thiểu số, người nghèo, người sinh sống trên địa bàn biên giới, vùng sâu, vùng xa…). Từ đó, giúp quản lý được toàn bộ dân cư sinh sống tại địa phương; tạo thuận lợi cho công tác hoạch định chính sách phát triển xã hội; bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Nếu không quy định chính sách này thì không có điều kiện để quản lý được toàn bộ dân cư sinh sống ở nước ta; gây khó khăn cho công tác hoạch định chính sách phát triển kinh tế - xã hội. Trường hợp người gốc Việt Nam không được thu thập thông tin, dữ liệu và quản lý mà vi phạm pháp luật thì cơ quan nhà nước sẽ không có thông tin để tra cứu, xác minh, nhất là thông tin sinh trắc học về vân tay, ảnh chân dung, gây khó khăn cho việc bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội.

PV: Xin cảm ơn ông!

Dự án Luật Căn cước do Bộ Công an chủ trì soạn thảo hiện đang được Bộ Công an, cơ quan chủ trì soạn thảo tiếp thu ý kiến và chỉnh lý, hoàn thiện. Dự án Luật đã được Quốc hội cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 5 và dự kiến xem xét thông qua tại Kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XV.

Nguyễn Hương (thực hiện)
.
.
.