Để đất “Chín Rồng” vươn lên mạnh mẽ: Khai thác các thế mạnh của châu thổ Cửu Long
Tầm nhìn dài hạn, mục tiêu phát triển đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) trở thành vùng đất an toàn, trù phú, thịnh vượng trong tương lai đến nhanh hay chậm đang đòi hỏi những nỗ lực vượt qua các thách thức, tận dụng thời cơ, hành động đột phá và không hối tiếc.
Con người là trung tâm của sự phát triển
Ngày 22/4, phát biểu kết luận Hội nghị toàn quốc quán triệt, triển khai thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa XIII về phương hướng phát triển kinh tế - xã hội (KTXH), bảo đảm quốc phòng – an ninh (QPAN) vùng ĐBSCL đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định, vùng ĐBSCL thực sự là địa bàn chiến lược đặc biệt quan trọng về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, QPAN và đối ngoại của cả nước; là “Vùng cực Nam - Thành đồng của Tổ quốc”, cửa ngõ phía Tây Nam của quốc gia.
ĐBSCL có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng cần được phát huy cao hơn và tiềm năng, lợi thế to lớn cho phát triển cần được khai thác có hiệu quả hơn trên cơ sở xây dựng, ban hành, tổ chức triển khai thực hiện thật tốt Nghị quyết của Bộ Chính trị lần này về phát triển vùng, đáp ứng mục tiêu, yêu cầu phát triển của vùng và cả nước trong thời kỳ mới.
Bên cạnh đó, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết mới lần này là để tiếp tục phát huy những kết quả thành tựu to lớn đã đạt được, khắc phục những hạn chế, yếu kém còn tồn tại và vượt qua khó khăn, thách thức mới đang đặt ra. “Việc nghiên cứu, ban hành và tổ chức triển khai thực hiện thật tốt Nghị quyết lần này sẽ góp phần để ĐBSCL đứng dậy làm chủ và vươn lên mạnh mẽ hơn nữa trong thời gian tới cùng cả nước”, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh.
Yêu cầu xuyên suốt trong quá trình phát triển vùng là lấy “con người” làm trung tâm; chọn “đổi mới sáng tạo, khoa học công nghệ” là chìa khóa phát triển, “văn hóa” làm nền tảng, coi “tài nguyên nước” là cốt lõi, chuyển đổi mô hình sinh kế theo hướng chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu, nước biển dâng, các tác động ngoại cảnh cũng như ứng phó, quản trị tốt rủi ro các yếu tố tiêu cực nội vùng...
Cùng với định hướng huy động, bố trí nguồn lực, cần xác định rõ đâu là nhiệm vụ trọng tâm, địa chỉ chịu trách nhiệm từng đầu việc, thời hạn hoàn thành, nhằm đảm bảo tính khả thi, hiệu quả. ĐBSCL đang đứng trước cơ hội chuyển đổi sang mô hình phát triển mới theo hướng gia tăng giá trị, phát huy có hiệu quả các nguồn lực về con người, khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Nghị quyết số 13 của Bộ Chính trị về phương hướng phát triển KTXH, đảm bảo QPAN vùng ĐBSCL đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 được ban hành trước bối cảnh và yêu cầu đó.
Khi nhắc đến vùng ĐBSCL thường gắn với những cụm từ trù phú, lợi thế tài nguyên, thiên nhiên ưu đãi, nguồn lao động dồi dào nhưng thực tế thì lại khác. Mặc dù đang nắm giữ nhiều lợi thế để bứt phá, phát triển, nhưng vùng ĐBSCL đang phát triển phân tán, quy mô nhỏ lẻ, giá trị thấp, chủ yếu phụ thuộc vào khai thác tài nguyên thiên nhiên.
Đồng chí Lê Quang Mạnh, Bí thư Thành ủy Cần Thơ khẳng định, Nghị quyết 13 có ý nghĩa quan trọng với tình hình phát triển hiện tại của thành phố nói riêng và ĐBSCL nói chung. Để thực hiện mục tiêu đến năm 2030, đồng chí Lê Quang Mạnh cho biết, TP Cần Thơ đang tập trung xây dựng các cơ chế, chính sách ưu đãi đầu tư, tăng cường phân cấp, đẩy mạnh cải cách hành chính, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, đồng thời xây dựng các khu, cụm công nghiệp như: Khu công nghiệp VSIP Cần Thơ; Trung tâm năng lượng ÔMôn gắn với chuỗi Dự án lô B; các khu công nghệ cao, công nghệ thông tin; đặc biệt là trung tâm liên kết sản xuất, chế biến, tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, vùng ĐBSCL tại Cần Thơ nhằm tạo bước đột pháthu hút đầu tư khu vực tư nhân cũng như các nhà đầu tư nước ngoài.
Theo ông Nguyễn Hồng Diên, Bộ trưởng Bộ Công Thương, trong quá trình phát triển, vùng châu thổ Cửu Long vẫn chưa khai thác hết tiềm năng, lợi thế. Sản xuất nông nghiệp manh mún, chưa bắt kịp tín hiệu của thị trường; nhiều nông sản của vùng vẫn phụ thuộc vào tiêu thụ qua đường tiểu ngạch, chất lượng sản phẩm không đồng đều, liên kết từ sản xuất đến tiêu thụ chưa gắn kết…
Để phát huy giá trị nông sản, tận dụng tốt cơ hội từ các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, Bộ Công Thương sẽ phối hợp với các bộ, ngành và địa phương trong vùng tập xây dựng Chương trình hành động thúc đẩy phát triển nông nghiệp nông thôn bền vững cho vùng ĐBSCL. Để tận dụng tốt các cơ hội thị trường, lãnh đạo Bộ Công Thương cũng đề nghị các bộ liên quan và địa phương cần chuẩn hóa quy hoạch vùng sản xuất nông nghiệp; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ nhằm nâng cao chất lượng, hàm lượng giá trị của nông sản, tạo tiền đề để xây dựng thương hiệu nông sản.
Cơ chế vượt trội, hành động đột phá
Trước tiên, cần phải định rõ lộ trình từ nay đến kết thúc kỳ kế hoạch 5 năm (2021-2025) và tầm nhìn đến năm 2030. Đặc biệt, chúng ta đang ở thời điểm tái cấu trúc, định hình lại cách thức phát triển, tính toán nguồn lực quốc gia để huy động, chuẩn bị các kịch bản phát triển sau đại dịch. Cùng với định hướng huy động, bố trí nguồn lực, cần xác định rõ đâu là nhiệm vụ trọng tâm.
Theo đó, cần ưu tiên tháo gỡ các điểm nghẽn phát triển vùng, tạo chuyển biến; xác định những ưu tiên hàng đầu để phát triển bền vững vùng là lấy con người làm trung tâm, tài nguyên nước là cốt lõi, phát triển thích ứng, chủ động thuận thiên trên cơ sở kiến thức, khoa học, chọn công nghệ làm chìa khóa. Bổ sung, hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách phát triển vùng.
Tiếp tục xây dựng, bổ sung cơ chế phối hợp, giám sát, đánh giá tiến độ và hiệu quả của Chương trình hành động tổng thể thực hiện Nghị quyết 120/NQ-CP. Tổ chức rà soát, đánh giá, tổng kết cơ chế thí điểm điều phối vùng theo Quyết định số 593/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Bên cạnh đó, cần đẩy nhanh tiến độ xây dựng và triển khai thực hiện các cơ chế liên kết hiệu quả các tiểu vùng Đồng Tháp Mười, Tứ giác Long Xuyên, bán đảo Cà Mau, tiểu vùng giữa sông Tiền, sông Hậu và ven biển phía Đông.
Ngay sau khi Quy hoạch được phê duyệt, Bộ KH&ĐT đã phối hợp với các bộ, ngành, địa phương xây dựng Kế hoạch thực hiện quy hoạch, bao gồm 4 nhóm nhiệm vụ trọng tâm, đó là: Phát triển kinh tế nông nghiệp giá trị cao, hiệu quả cao, chuyển từ sản xuất nông nghiệp sang kinh tế nông nghiệp, trong đó tập trung phát triển các trung tâm đầu mối, xây dựng vùng nguyên liệu tập trung, công nghệ cao, đảm bảo an toàn thực phẩm.
Phát triển khu vực đô thị - công nghiệp động lực, trong đó tập trung đầu tư xây dựng hạ tầng giao thông kết nối liên vùng, liên tỉnh, hệ thống logistics, hạ tầng kỹ thuật của khu kinh tế, khu công nghiệp, cụm công nghiệp; các công trình nguồn và lưới điện, phát huy có hiệu quả tiềm năng về dầu khí và năng lượng tái tạo.
Xây dựng môi trường sống tốt, điểm đến hấp dẫn: Xây dựng và triển khai Chương trình phát triển các điểm nguồn nước ngọt dự trữ chiến lược trên toàn vùng; nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ giáo dục – đào tạo, y tế, du lịch có khả năng cạnh tranh ở cấp độ quốc gia, khu vực và quốc tế tại TP Cần Thơ; chương trình phát triển th+ương hiệu du lịch ĐBSCL tầm cỡ quốc tế gắn với bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa, lịch sử; bảo tồn các hệ sinh thái đất ngập nước quan trọng, đa dạng sinh học biển, hải đảo.
Quản lý, điều phối thực hiện quy hoạch vùng: Hội đồng điều phối vùng đồng bằng sông Cửu Long giúp Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo điều phối, đôn đốc, các bộ, ngành, địa phương triển khai thực hiện thống nhất các nhiệm vụ, chương trình, dự án, đề án theo Quy hoạch.
Hội đồng điều phối vùng ĐBSCL với sự tham gia của các bộ, ngành Trung ương và địa phương đã được thành lập cần có thực quyền, nên tập trung ba lĩnh vực then chốt là điều phối quy hoạch, quản lý, sử dụng tài nguyên nước và quyết định các dự án đầu tư có tính liên kết vùng theo quy mô, tính chất dự án.
Phục vụ cho hoạt động điều phối hiệu quả, cần cập nhật và hệ thống hóa số liệu, dữ liệu liên ngành, tăng cường điều tra cơ bản để cập nhật đầy đủ các thông tin, dữ liệu toàn vùng, phục vụ công tác quy hoạch không gian lãnh thổ, xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý và quy hoạch tổng thể phát triển bền vững vùng. Cần đẩy nhanh tiến độ xây dựng cơ chế điều phối và vận hành Trung tâm thông tin dữ liệu vùng để bảo đảm cung cấp thông tin, dữ liệu chính xác, kịp thời cho việc ra quyết định của Hội đồng điều phối vùng và chính quyền địa phương.
Tổ chức huy động nguồn lực, xây dựng cơ chế, chính sách mới nhằm phát triển, thu hút đầu tư, bảo đảm tính liên kết giữa các địa phương trong vùng và với các khu vực khác. Cần thúc đẩy hình thành các quỹ đầu tư, các cơ chế huy động vốn khuyến khích cho vay, tăng cường năng lực cho các thành phần kinh tế. Xây dựng cơ chế tài chính riêng cho vùng thông qua nguồn lực ngoài nước, vốn ODA và hoàn thiện thể chế về môi trường đầu tư kinh doanh để thu hút đầu tư tư nhân là điều kiện cần để giải quyết điểm nghẽn vốn đầu tư.
Đầu tư và phát triển hạ tầng theo quy hoạch và tổ chức không gian lãnh thổ, giải quyết các “điểm nghẽn” phát triển trong lĩnh vực giao thông vận tải, thích ứng BĐKH phù hợp với quy hoạch vùng được phê duyệt. Thực hiện nhiệm vụ cấp bách về chống sạt lở, sụt lún nghiêm trọng tại một số khu vực bờ biển, bờ sông. Các dự án đầu tư và phát triển hạ tầng phải đảm bảo thống nhất, tính liên vùng, liên ngành, có trọng tâm, trọng điểm và có lộ trình hợp lý.