Chính phủ đề xuất tự quyết duyệt báo cáo nghiên cứu khả thi giai đoạn 2 sân bay Long Thành
Thứ Hai, 08/12/2025, 12:04
Theo chủ trương đầu tư và quy hoạch được duyệt, giai đoạn 2 của dự án dự kiến đầu tư một đường cất hạ cánh, một nhà ga hành khách công suất 25 triệu hành khách/năm và các công trình đồng bộ đáp ứng nhu cầu khai thác.
Tiếp tục Kỳ họp thứ 10, sáng 8/12, dưới sự điều hành của Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Hải, Quốc hội nghe trình bày Tờ trình và Báo cáo thẩm tra về việc điều chỉnh nội dung Nghị quyết số 94 của Quốc hội về chủ trương đầu tư Cảng hàng không quốc tế Long Thành (Đồng Nai).
Trình bày tờ trình, Bộ trưởng Bộ Xây dựng Trần Hồng Minh cho biết, Chính phủ kiến nghị Quốc hội xem xét, điều chỉnh nội dung tại khoản 6 Điều 2 Nghị quyết số 94/2015 về chủ trương đầu tư dự án Cảng hàng không quốc tế Long Thành (CHK quốc tế) để cho phép Chính phủ tổ chức phê duyệt Báo cáo nghiên cứu khả thi giai đoạn 2 của dự án theo thẩm quyền mà không phải báo cáo Quốc hội thông qua.
Bộ trưởng Bộ Xây dựng Trần Hồng Minh trình bày Tờ trình về việc điều chỉnh nội dung Nghị quyết số 94 của Quốc hội về chủ trương đầu tư Cảng hàng không quốc tế Long Thành.
Đồng thời, Chính phủ đề xuất đưa kiến nghị trên vào nội dung nghị quyết chung của Kỳ họp thứ 10. "Việc Quốc hội cho phép Chính phủ tổ chức phê duyệt Báo cáo nghiên cứu khả thi giai đoạn 2 của dự án theo thẩm quyền mà không phải báo cáo Quốc hội thông qua sẽ giúp Chính phủ chủ động tổ chức nghiên cứu, thẩm định, phê duyệt Báo cáo nghiên cứu khả thi giai đoạn 2, phù hợp chủ trương phân cấp, phân quyền và quy định tại khoản 1 Điều 43 Luật Đầu tư công năm 2024", theo tờ trình.
Bộ trưởng Trần Hồng Minh cho biết, ban đầu, Báo cáo nghiên cứu khả thi giai đoạn 1 của dự án, trên cơ sở dự báo nhu cầu vận tải, dự kiến thời điểm nghiên cứu, đầu tư giai đoạn 2 (gồm đường cất, hạ cánh thứ 3 và nhà ga hành khách thứ 2) từ năm 2028 - 2032. Tuy nhiên, với kịch bản tăng trưởng GDP đề ra từ năm 2026 đạt hai con số, sản lượng hành khách qua các cảng hàng không nói chung, đặc biệt là Cảng hàng không quốc tế Long Thành nói riêng, sẽ tăng nhanh hơn dự báo trước đây. Vì vậy, cần tổ chức nghiên cứu đầu tư giai đoạn 2 sớm hơn dự kiến.
Ngoài ra, việc nghiên cứu đầu tư ngay đường cất, hạ cánh thứ 3 thuộc giai đoạn 2 sẽ tận dụng được nhân công, máy móc thiết bị sẵn có của các nhà thầu đang thi công, qua đó tiết kiệm thời gian, chi phí, rút ngắn tiến độ và nâng cao hiệu quả đầu tư xây dựng. Đồng thời, góp phần giảm thiểu tác động tới hoạt động khai thác cảng như bụi, tiếng ồn do hoạt động thi công giai đoạn 2.
Diện tích đất của dự án là 5.000 ha, trong đó, diện tích đất xây dựng kết cấu hạ tầng cảng hàng không là 2.750 ha; diện tích đất dành riêng cho quốc phòng là 570 ha và diện tích đất cho xây dựng kết cấu hạ tầng hàng không dùng chung quân sự và dân dụng là 480 ha; diện tích đất dành cho hạng mục phụ trợ và công nghiệp hàng không, các công trình thương mại khác là 1.200 ha.
Các đại biểu Quốc hội dự phiên họp.
Thời gian và lộ trình thực hiện dự án Cảng hàng không quốc tế Long Thành gồm 3 giai đoạn. Giai đoạn 1 gồm đầu tư xây dựng 2 đường cất hạ cánh ở phía Bắc và 1 nhà ga hành khách cùng các hạng mục phụ trợ đồng bộ với công suất 25 triệu hành khách/năm, 1,2 triệu tấn hàng hóa/năm; chậm nhất đến 31/12/2026 hoàn thành và đưa vào khai thác. Giai đoạn 2 tiếp tục đầu tư xây dựng thêm 1 đường cất hạ cánh cấu hình mở và 1 nhà ga hành khách để đạt công suất 50 triệu hành khách/năm, 1,5 triệu tấn hàng hóa/năm. Giai đoạn 3 gồm hoàn thành các hạng mục của Dự án để đạt công suất 100 triệu hành khách/năm và 5 triệu tấn hàng hóa/năm. Chính phủ chỉ đạo lập báo cáo nghiên cứu khả thi đối với từng giai đoạn của Dự án và báo cáo Quốc hội thông qua trước khi quyết định đầu tư.
Trên cơ sở cách thức tổ chức và hình thức đầu tư các dự án thành phần của giai đoạn 1, Chính phủ dự kiến giao ACV làm chủ đầu tư công trình thiết yếu và công trình khác của giai đoạn 2 (đường cất, hạ cánh thứ 3, hệ thống đường lăn, sân đỗ máy bay, nhà ga hành khách...), VATM làm chủ đầu tư các công trình bảo đảm hoạt động bay của giai đoạn 2 (đài DVOR/DME, hệ thống radar giám sát, radar thời tiết...).
Báo cáo thẩm tra, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế và Tài chính của Quốc hội Phan Văn Mãi cho rằng, Uỷ ban nhận thấy kiến nghị của Chính phủ có cơ sở và phù hợp quy định hiện hành, việc thực hiện chủ trương của Đảng về đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, giúp đơn giản hóa, rút ngắn thời gian lập Báo cáo nghiên cứu khả thi, quyết định đầu tư dự án quan trọng quốc gia tại khoản 1 Điều 43 của Luật Đầu tư công năm 2024 (được sửa đổi, bổ sung năm 2025).
Uỷ ban cũng thống nhất thể hiện nội dung kiến nghị tại nghị quyết Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV, tương tự nội dung điều chỉnh khác có liên quan dự án Cảng hàng không quốc tế Long Thành.
Sửa Luật Thuế GTGT để kịp thời khắc phục hậu quả thiên tai, bão lũ, sớm khôi phục sản xuất kinh doanh
Sáng 8/12, tiếp tục Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khoá XV, dưới sự điều hành của Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Hải, Quốc hội nghe Tờ trình và báo cáo thẩm tra về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế giá trị gia tăng (GTGT). Điểm nhấn quan trọng của lần sửa đổi này là nhằm kịp thời khắc phục hậu quả thiên tai, bão lũ, khôi phục sản xuất kinh doanh, đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp, đồng thời tháo gỡ "điểm nghẽn" trong hoàn thuế giá trị gia tăng.
Gỡ vướng mắc về chính sách thuế VAT lĩnh vực nông nghiệp, thức ăn chăn nuôi
Trình bày Tờ trình về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế GTGT, Bộ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Văn Thắng cho biết, sửa đổi này được Chính phủ đánh giá là cấp bách và cần thiết để kịp thời khắc phục hậu quả thiên tai, bão lũ, sớm khôi phục sản xuất kinh doanh, đặc biệt là trong lĩnh vực nông nghiệp, đồng thời tháo gỡ "điểm nghẽn" trong hoàn thuế GTGT. Về cơ sở thực tiễn, tờ trình nêu rõ tháng 11/2024, Quốc hội đã ban hành Luật Thuế GTGT có hiệu lực thi hành từ 1/7/2025.
Bộ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Văn Thắng cho biết, sửa đổi này để kịp thời khắc phục hậu quả thiên tai, bão lũ, sớm khôi phục sản xuất kinh doanh, đặc biệt là trong lĩnh vực nông nghiệp.
Qua triển khai thực hiện, các hiệp hội và doanh nghiệp đã phản ánh vướng mắc về chính sách thuế GTGT đối với lĩnh vực nông nghiệp, thức ăn chăn nuôi và điều kiện hoàn thuế. Theo đó các doanh nghiệp nêu họ phải trả thuế VAT 5% đầu vào đối với hàng hóa là các sản phẩm nông nghiệp mua bán ở khâu thương mại. Số thuế VAT thu rồi lại hoàn thuế cho những mặt hàng mà phần lớn sản lượng sản xuất ra được dành để xuất khẩu (như cá da trơn, hồ tiêu, cà phê…) dẫn đến lãng phí thời gian và đọng vốn của doanh nghiệp trong khi các tổ chức tín dụng không giải ngân phần thuế này khi cấp vốn lưu động, gây áp lực tài chính và giảm hiệu quả kinh doanh.
Cũng theo các doanh nghiệp, quy định pháp luật hiện hành đã dẫn đến có sự phân biệt đối xử giữa nông sản, thủy sản sản xuất trong nước và nông sản, thủy sản nhập khẩu do nông sản, thủy sản nhập khẩu không chịu thuế VAT khi nhập khẩu vào Việt Nam.
Mặt khác, do thức ăn chăn nuôi thuộc đối tượng không chịu thuế nên không được khấu trừ, không được hoàn thuế VAT đầu vào, vì vậy dẫn đến doanh nghiệp sản xuất thức ăn chăn nuôi bị tăng chi phí, tăng giá bán, qua đó sẽ ảnh hưởng đến người chăn nuôi. Bên cạnh đó, quy định này chưa đảm bảo công bằng và có thể làm giảm khả năng cạnh tranh với sản phẩm thức ăn chăn nuôi nhập khẩu do thức ăn chăn nuôi nhập khẩu không chịu thuế VAT.
"Do hiện hành quy định người mua chỉ được hoàn thuế khi người bán đã kê khai, nộp thuế nên đã dẫn đến thực tế là các doanh nghiệp khi xuất khẩu được hoàn thuế GTGT đầu vào, nhưng lại bị chậm do phải chờ xác định người bán hàng cho mình đã kê khai, nộp thuế, gây khó khăn và rủi ro cho doanh nghiệp đề nghị hoàn thuế, vì doanh nghiệp đề nghị hoàn thuế không có công cụ pháp lý hay kỹ thuật để kiểm tra tình trạng tuân thủ thuế của người bán tại thời điểm lập hồ sơ hoàn thuế", tờ trình nêu.
Không tính thuế sản phẩm cây trồng, chăn nuôi... chưa chế biến
Theo dự thảo luật, Chính phủ đề xuất sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 5 luật hiện hành (về đối tượng không chịu thuế) thêm sản phẩm cây trồng, rừng trồng, chăn nuôi, thủy sản nuôi trồng, đánh bắt chưa chế biến thành các sản phẩm khác hoặc chỉ qua sơ chế thông thường của tổ chức, cá nhân tự sản xuất, đánh bắt bán ra và ở khâu nhập khẩu.
Doanh nghiệp, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã mua sản phẩm cây trồng, rừng trồng, chăn nuôi, thủy sản nuôi trồng, đánh bắt chưa chế biến thành các sản phẩm khác hoặc chỉ qua sơ chế thông thường bán cho doanh nghiệp, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã khác không phải tính thuế VAT theo quy định của Bộ trưởng Bộ Tài chính.
Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế và Tài chính Phan Văn Mãi Trình bày thẩm tra về sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế GTGT.
Mặt khác bổ sung quy định về khấu trừ thuế theo hướng thuế VAT đầu vào của hàng hóa, dịch vụ không phải tính thuế VAT được khấu trừ toàn bộ. Chính phủ cho rằng đề xuất nêu trên không tác động đến số thu ngân sách nhà nước mà còn giảm thủ tục tính và kê khai, nộp, khấu trừ thuế.
Đồng thời vẫn bảo đảm nguyên tắc của thuế VAT là thuế VAT đầu vào của hàng hóa, dịch vụ sử dụng cho sản xuất kinh doanh hàng hóa, dịch vụ chịu thuế VAT được khấu trừ toàn bộ, các sản phẩm này khi bán cho người tiêu dùng cuối cùng vẫn thuộc đối tượng chịu thuế VAT 5%.
Bên cạnh đó, quy định này cũng góp phần hỗ trợ hoạt động xuất khẩu nông, lâm, thủy, hải sản khi doanh nghiệp không phải ứng trước tiền để nộp thuế sau đó lại làm thủ tục hoàn thuế, đồng thời góp phần đơn giản hóa thủ tục, tránh lãng phí thời gian và chi phí cơ hội của doanh nghiệp, giảm gian lận trong mua bán hóa đơn cũng như hoàn thuế VAT.
Ngoài ra, Chính phủ cũng trình lược bỏ nội dung sản phẩm cây trồng, rừng trồng, chăn nuôi, thủy sản nuôi trồng, đánh bắt chưa chế biến thành các sản phẩm khác hoặc chỉ qua sơ chế thông thường được sử dụng làm thức ăn chăn nuôi, dược liệu áp dụng thuế suất VAT theo mức thuế suất quy định cho sản phẩm cây trồng, rừng trồng, chăn nuôi, thủy sản.
Đề xuất này nhằm đảm bảo mặt hàng thức ăn chăn nuôi được thực hiện đồng bộ theo quy định của pháp luật về thức ăn chăn nuôi và tháo gỡ khó khăn cho sản xuất nông nghiệp, nhất là trong bối cảnh ngành nông nghiệp bị ảnh hưởng nhiều từ hệ quả của thiên tai, mưa lũ kéo dài.
Các đại biểu Quốc hội dự phiên họp.
Đề nghị đánh giá kỹ rủi ro thất thu và gian lận
Trình bày thẩm tra về sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế GTGT, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế và Tài chính Phan Văn Mãi cho biết, Uỷ ban thống nhất việc tiếp nhận ý kiến của các bên liên quan trong quá trình thực thi luật là cần thiết để kịp thời có giải pháp tháo gỡ vướng mắc, điểm nghẽn cho người dân và doanh nghiệp. Các nội dung Chính phủ đề xuất sửa đổi đều là quy định được xem xét khi sửa Luật Thuế giá trị gia tăng vào năm 2024 và có hiệu lực từ ngày 1/7/2025. Nhiều ý kiến trong Ủy ban Kinh tế và Tài chính đề nghị cân nhắc thận trọng vì luật và các văn bản hướng dẫn vừa triển khai, chưa đủ thời gian đánh giá toàn diện.
Uỷ ban Kinh tế và Tài chính cho rằng, vướng mắc chủ yếu nằm ở khâu hoàn thuế chậm. Vì vậy, cần phân định rõ nội dung nào thực sự phải sửa luật, nội dung nào thuộc tổ chức thực hiện hoặc cần xử lý ở văn bản dưới luật. Đồng thời đảm bảo không tạo kẽ hở, gây thất thu và phù hợp với quy định 188.