Một số điểm mới cơ bản về quyền con người, quyền và nghĩa vụ công dân trong Hiến pháp 2013

Thứ Hai, 19/05/2014, 10:12
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 28/11/2013, có hiệu lực từ ngày 1/1/2014. Đây được coi là bản Hiến pháp của thời kỳ đổi mới toàn diện, đáp ứng yêu cầu xây dựng, bảo vệ, phát triển và hội nhập quốc tế của đất nước ta trong thời kỳ mới, đồng thời đánh dấu một bước phát triển mới của lịch sử lập hiến Việt Nam.

Quyền con người, quyền, nghĩa vụ cơ bản của công dân được quy định tại Chương II (gồm 36 điều), ngay sau chương chế độ chính trị của Hiến pháp 2013. Đây là một Chương có nhiều nội dung mới và được đánh giá cao bởi những quy định cởi mở, đậm tính quốc tế về quyền con người,  được thể hiện tập trung thành mục riêng, tạo thành điểm nhấn về nhân quyền và xuyên suốt toàn bộ Hiến pháp 2013.

Cùng với việc ghi nhận trong Hiến pháp 2013 về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân bảo đảm phù hợp với các điều ước quốc tế về quyền con người mà nước ta tham gia ký kết, Hiến pháp đã làm rõ hơn các quyền, nghĩa vụ cơ bản của công dân và trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo đảm thực hiện quyền con người, quyền công dân, thể hiện bản chất dân chủ của Nhà nước ta. Quyền con người, quyền và nghĩa vụ công dân trong Hiến pháp 2013 có một số điểm mới cơ bản như sau:

Thứ nhất, Hiến pháp 2013 đã thể hiện rõ sự phân định giữa “quyền con người” và “quyền công dân” bằng việc quy định cụ thể nhóm quyền được áp dụng đối với mọi cá nhân với tư cách là quyền con người và nhóm quyền chỉ áp dụng đối với công dân Việt Nam với tư cách là các quyền công dân. Theo đó, quyền con người được quan niệm là quyền tự nhiên vốn có của con người từ lúc sinh ra; còn quyền công dân, trước hết cũng là quyền con người, nhưng việc thực hiện nó gắn với quốc tịch, tức là gắn với vị trí pháp lý của công dân trong quan hệ với nhà nước, được nhà nước đảm bảo đối với công dân của nước mình. Các quy định về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân được bố trí, sắp xếp theo thứ tự từ trên xuống, đầu tiên là các nguyên tắc hiến định về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; tiếp đó là các quy định về quyền về dân sự, chính trị; các quyền về kinh tế, văn hóa, xã hội và sau cùng là các quy định về nghĩa vụ của cá nhân, công dân.

Thứ hai, Hiến pháp 2013 xác định rõ trách nhiệm của Nhà nước, đề cao trách nhiệm của Nhà nước trong mối quan hệ với quyền con người, quyền công dân, đồng thời, cũng “đóng khung,” “ngăn chặn” hành vi xâm phạm, hạn chế quyền công dân từ phía các cơ quan, nhân viên công quyền, tạo cơ sở pháp lý vững chắc để mỗi người dân bảo vệ và thực hiện quyền con người, quyền công dân của mình.

Hiến pháp 2013 quy định trách nhiệm của Nhà nước và những đảm bảo của Nhà nước trong việc ghi nhận, tôn trọng, thực hiện và bảo vệ quyền con người, quyền công dân như “Quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật”(Điều 14);“Nhà nước bảo hộ công dân Việt Nam ở nước ngoài”(Điều 17), “Nhà nước tạo mọi điều kiện để công dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội; công khai, minh bạch trong việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của công dân” (Điều 28).

Thứ ba, Hiến pháp 2013 thể hiện một bước tiến mới trong việc mở rộng và phát triển các quyền, phản ánh kết quả của quá trình đổi mới ở nước ta bằng việc bổ sung quy định một số quyền mới của con người, quyền và nghĩa vụ mới của công dân như: Công dân được nhà nước bảo hộ, không thể bị trục xuất, giao nộp cho nhà nước khác (Điều 17); có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm, không ai bị tước đoạt tính mạng trái pháp luật (Điều 19); công dân có quyền được bảo đảm an sinh xã hội (Điều 34); mọi người có quyền hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn hóa, tham gia vào đời sống văn hóa, sử dụng các cơ sở văn hóa (Điều 41); có quyền xác định dân tộc của mình, sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ, lựa chọn ngôn ngữ giao tiếp (Điều 42); có quyền được sống trong môi trường trong lành và có nghĩa vụ bảo vệ môi trường (Điều 43)…

Thứ tư, trên nguyên tắc nhân quyền ở Việt Nam luôn được thực hiện trong sự tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, để giữ gìn trật tự, an toàn xã hội, hài hòa lợi ích chung và bảo đảm sự phát triển bền vững đất nước, Hiến pháp ghi nhận về các nghĩa vụ cơ bản của công dân như: nghĩa vụ trung thành với Tổ quốc; nghĩa vụ quân sự; nghĩa vụ tuân theo Hiến pháp và pháp luật, tham gia bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội và chấp hành những quy tắc sinh hoạt cộng đồng. Ngoài ra, Hiến pháp còn sửa đổi, bổ sung quy định cụ thể quyền và nghĩa vụ của một số đối tượng riêng như trẻ em, thanh niên, người cao tuổi.

Tôn trọng quyền con người là động lực để thúc đẩy sự phát triển của xã hội, vì chính con người là chủ thể xây dựng, bảo vệ đất nước. Lợi ích của con người được bảo đảm sẽ góp phần làm cho sự phát triển xã hội tốt hơn. Việc hiến định quyền con người trong Hiến pháp 2013 thể hiện rõ hơn bản chất dân chủ, tiến bộ của Đảng và Nhà nước ta, đồng thời là sự tiếp nối logic, tạo nền tảng pháp lý cao nhất để bảo đảm quyền con người được hiện thực hóa đầy đủ trong thực tiễn như là nội dung, mục tiêu và động lực mới cho phát triển một Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng và văn minh

Nguyễn Thu Hiền
.
.
.