Mỹ sẽ không rơi vào cảnh vỡ nợ?

Thứ Bảy, 27/05/2023, 09:40

Tổng thống Joe Biden đã khẳng định như vậy hôm 25/5 (giờ địa phương), đồng thời nhấn mạnh các cuộc thương lượng giữa ông và Chủ tịch Hạ viện Kevin McCarthy về cắt giảm chi tiêu và tăng trần nợ “có hiệu quả”.

Những tuyên bố trên được đưa ra trong bối cảnh các nghị sĩ bắt đầu kỳ nghỉ 10 ngày mà chưa đạt thỏa thuận tăng trần nợ công và chỉ còn vài ngày nữa là đến ngày 1/6 - thời điểm Bộ Tài chính cảnh báo chính phủ có thể hết khả năng trang trải chi phí cho các hoạt động và vỡ nợ, với khoản nợ hơn 31.000 tỉ USD.

Nhà đàm phán phe Cộng hòa Garret Graves cho biết, Tổng thống Joe Biden và Chủ tịch Hạ viện đã có cuộc thảo luận trực tuyến ngày 25/5 (giờ địa phương), đồng thời tiết lộ hai bên vẫn chưa đạt đồng thuận về chi tiêu cho an sinh xã hội và chương trình trợ cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe cho người nghèo Medicaid. Hạ nghị sĩ đảng Cộng hòa Kevin Hern cho biết nhiều khả năng hai bên sẽ đạt được thỏa thuận vào chiều 26/5 (giờ địa phương - sáng 27/5 giờ Việt Nam). Trong khi đó, theo người đứng đầu Nhà Trắng, ông và Chủ tịch Hạ viện Kevin McCarthy “có quan điểm rất khác biệt” về những lĩnh vực phải cắt giảm chi tiêu. Ông nhấn mạnh: “Tôi cho rằng không nên trút toàn bộ gánh nặng lên tầng lớp trung lưu và tầng lớp lao động Mỹ”.

Mỹ sẽ không rơi vào cảnh vỡ nợ? -0
Bảng điện tử hiển thị số nợ quốc gia của Mỹ.

Về phần mình, người đứng đầu Hạ viện cho biết hai bên vẫn chưa đạt được thỏa thuận và nêu rõ “đây cũng không phải điều dễ dàng”. Mặc dù vậy, Thư ký báo chí Nhà Trắng Karine Jean_Pierre khẳng định các cuộc đàm phán “vẫn diễn ra hiệu quả”. Bà nêu rõ hai bên hoàn toàn có thể thống nhất một thỏa thuận chung về nâng trần nợ công. Bà đồng thời cảnh báo kịch bản Mỹ vỡ nợ sẽ rất thảm khốc khi kéo theo hàng loạt rủi ro khác như hàng triệu người thất nghiệp, trợ cấp hưu trí bị ảnh hưởng và một cuộc suy thoái kinh tế khiến thị trường thế giới cũng chao đảo.

Chuyên gia Mark Zandi, nhà kinh tế trưởng tại Moody's Analytics, cho biết: “Không một góc nào của nền kinh tế toàn cầu sẽ tránh khỏi” nếu chính phủ Mỹ vỡ nợ và cuộc khủng hoảng không được giải quyết nhanh chóng. Ông và hai đồng nghiệp tại Moodys Analytics đã kết luận rằng, ngay cả khi giới hạn nợ bị vi phạm không quá một tuần, nền kinh tế Mỹ sẽ suy yếu rất nhiều và nhanh đến mức xóa sạch khoảng 1,5 triệu việc làm.

Chuyên gia Mark Zandi và các đồng nghiệp của ông đã nhận thấy trong phân tích của họ: Tăng trưởng kinh tế Mỹ sẽ giảm xuống, 7,8 triệu việc làm của nước này sẽ biến mất, lãi suất vay sẽ tăng vọt, tỷ lệ thất nghiệp sẽ tăng từ 3,4% hiện tại lên 8% và thị trường chứng khoán lao dốc sẽ xóa sạch 10 nghìn tỷ USD tài sản của các gia đình. Tất nhiên, sự việc có thể không đến mức như vậy. Nhà Trắng và các thành viên Đảng Cộng hòa tại Hạ viện, đang tìm kiếm một bước đột phá thông qua đàm phán. Đảng Cộng hòa đã đe dọa để chính phủ vỡ nợ bằng cách từ chối nâng trần nợ theo luật định trừ khi Tổng thống Joe Biden và Đảng Dân chủ chấp nhận cắt giảm mạnh chi tiêu và các nhượng bộ khác.

Vấn đề gây lo lắng là thực tế rất nhiều hoạt động tài chính đang xoay quanh niềm tin rằng, nước Mỹ sẽ luôn thanh toán các nghĩa vụ tài chính của mình. Nợ của Mỹ, từ lâu đã được coi là một tài sản cực kỳ an toàn, là nền tảng của thương mại toàn cầu, được xây dựng trên nhiều thập kỷ tin tưởng vào nước Mỹ. Một vụ vỡ nợ có thể phá vỡ thị trường nợ Kho bạc trị giá 24 nghìn tỷ USD, khiến thị trường tài chính đóng băng và gây ra một cuộc khủng hoảng quốc tế. Ông Maurice Obstfeld, thành viên cấp cao tại Viện Kinh tế Quốc tế Peterson, cựu kinh tế gia trưởng tại Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), nhận xét: “Nếu độ tin cậy của Kho bạc Mỹ bị suy giảm vì bất kỳ lý do gì, thì nó sẽ gây ra làn sóng xung kích khắp hệ thống... và gây ra những hậu quả to lớn đối với tăng trưởng toàn cầu”.

Trái phiếu Kho bạc Mỹ được sử dụng rộng rãi làm tài sản thế chấp cho các khoản vay, như một bộ đệm chống lại tổn thất của ngân hàng, như một thiên đường trú ẩn trong những thời điểm bất ổn cao và là nơi để các ngân hàng trung ương nước ngoài dự trữ ngoại hối. Với uy tín về độ an toàn, các khoản nợ của Chính phủ Mỹ - như tín phiếu kho bạc, trái phiếu kho bạc - có trọng số rủi ro bằng 0 theo quy định của ngân hàng quốc tế. Chính phủ nước ngoài và các nhà đầu tư tư nhân nắm giữ khoản nợ gần 7,6 nghìn tỷ USD - chiếm khoảng 31% trái phiếu Kho bạc Mỹ trên thị trường tài chính.

Sự thống trị của đồng USD đã khiến nó trở thành tiền tệ toàn cầu kể từ Thế chiến II. Nhờ thế, Mỹ tương đối dễ dàng vay mượn, khiến gánh nợ chính phủ ngày càng tăng. Nhưng nhu cầu cao đối với USD cũng có xu hướng làm cho chúng trở nên có giá trị hơn so với các loại tiền tệ khác và điều đó gây ra một cái giá: Đồng USD mạnh khiến hàng hóa Mỹ trở nên đắt hơn so với các đối thủ nước ngoài, khiến các nhà xuất khẩu Mỹ gặp bất lợi trong cạnh tranh. Đó là một trong những lý do tại sao Mỹ bị thâm hụt thương mại hàng năm kể từ năm 1975. Trong tất cả các khoản dự trữ ngoại hối do các ngân hàng trung ương trên thế giới nắm giữ, đồng USD chiếm 58%. Tiếp đó là đồng euro: 20% và, theo IMF, đồng Nhân dân tệ (NDT) của Trung Quốc chỉ chiếm dưới 3%. Các nhà nghiên cứu tại Cục Dự trữ Liên bang (FED) đã tính toán rằng từ năm 1999 - 2019, 96% giao dịch ở châu Mỹ được lập hóa đơn bằng USD. 74% thương mại ở châu Á cũng vậy. Ở những nơi khác ngoài châu Âu, nơi đồng euro thống trị, đồng USD chiếm 79% thương mại. Đồng tiền của Mỹ đáng tin cậy đến mức các thương nhân ở một số nền kinh tế không ổn định yêu cầu thanh toán bằng USD, thay vì nội tệ của đất nước họ. Và thực tế đã chứng minh, ngay cả khi một cuộc khủng hoảng bắt nguồn từ Mỹ, đồng USD vẫn luôn là nơi trú ẩn an toàn cho các nhà đầu tư.

Trong cuộc khủng hoảng trần nợ, ông Clay Lowery, chuyên gia giám sát nghiên cứu tại Viện Tài chính Quốc tế và từng là trợ lý Bộ trưởng Tài chính Mỹ trong cuộc khủng hoảng năm 2008, cho rằng, Mỹ sẽ tiếp tục trả lãi cho các trái chủ. Và họ sẽ cố gắng thanh toán các nghĩa vụ khác của mình - chẳng hạn như cho các nhà thầu và người về hưu - theo thứ tự các hóa đơn đó đến hạn và khi có tiền. Chính phủ có thể sẽ bị kiện bởi những người không được trả tiền. Và các cơ quan xếp hạng có thể sẽ hạ uy tín nợ của nước này, ngay cả khi Bộ Tài chính tiếp tục trả lãi cho các trái chủ. Đồng USD, mặc dù vẫn chiếm ưu thế trên toàn cầu, nhưng đã mất điểm trong những năm gần đây khi nhiều ngân hàng, doanh nghiệp và nhà đầu tư chuyển sang sử dụng đồng euro và ở mức độ thấp hơn là đồng NDT. Tuy nhiên, cho đến nay, không có lựa chọn đồng tiền thay thế rõ ràng nào xuất hiện. Đồng Euro vẫn thua xa USD. Đồng NDT còn thua hơn thế nữa. Nhưng khủng hoảng trần nợ chắc chắn sẽ làm dấy lên câu hỏi về sức mạnh tài chính to lớn của nước Mỹ và đồng USD.

Khổng Hà (tổng hợp)
.
.
.