Quốc hội chính thức xem xét chủ trương đầu tư đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam
Tuyến đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam được trình ra Quốc hội lần này dự kiến bắt đầu từ ga Ngọc Hồi (Hà Nội) và kết thúc tại ga Thủ Thiêm (TP Hồ Chí Minh), đi qua địa phận 20 tỉnh, thành phố, chiều dài tuyến khoảng 1.541km, tốc độ thiết kế 350 km/h.
Sáng 13/11, Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải Nguyễn Văn Thắng, thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ trình bày Tờ trình về chủ trương đầu tư dự án đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc - Nam; Chủ nhiệm Uỷ ban Kinh tế của Quốc hội Vũ Hồng Thanh trình bày báo cáo thẩm tra. Sau đó, Quốc hội đã thảo luận tại tổ về nội dung này.
Tổng mức đầu tư sơ bộ hơn 1,7 triệu tỷ đồng
Theo Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải Nguyễn Văn Thắng, trình bày tờ trình cho biết, năm 2010, ý tưởng xây dựng tuyến đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam đã được đưa ra nhưng Quốc hội chưa thông qua do còn ý kiến băn khoăn về tốc độ, phương án khai thác, nguồn lực đầu tư trong bối cảnh quy mô nền kinh tế thời điểm đó thấp (GDP là 147 tỷ USD), nợ công ở mức cao (56,6% GDP). Nhưng nay, nhu cầu vận tải ngày càng tăng cao, quy mô nền kinh tế năm 2023 đạt 430 tỷ USD, gấp gần 3 lần so với năm 2010; nợ công ở mức thấp - khoảng 37% GDP. Vì thế, theo Chính phủ, nếu dự kiến triển khai dự án vào năm 2027, quy mô nền kinh tế ước đạt 564 tỷ USD, nguồn lực đầu tư lúc này không còn là trở ngại lớn.
Tuyến đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam được trình ra Quốc hội lần này dự kiến bắt đầu từ ga Ngọc Hồi (Hà Nội) và kết thúc tại ga Thủ Thiêm (TP Hồ Chí Minh), đi qua địa phận 20 tỉnh, thành phố. Dự án có chiều dài tuyến khoảng 1.541km, xây dựng mới tuyến đường sắt đôi, khổ 1.435mm với tốc độ thiết kế 350 km/h. Đường sắt tốc độ cao, theo phương án Chính phủ trình, sẽ vận chuyển hành khách, đáp ứng yêu cầu lưỡng dụng phục vụ quốc phòng, an ninh và có thể vận tải hàng hóa khi cần thiết.
Theo phương án thiết kế sơ bộ, hướng tuyến của đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam được nghiên cứu và lựa chọn “ngắn nhất có thể”. Dự án cũng hạn chế đi qua các khu vực nhạy cảm về môi trường, các khu di tích, danh lam thắng cảnh, đất quốc phòng; giảm khối lượng giải phóng mặt bằng, tránh các khu vực đông dân cư.
Trên dọc tuyến cao tốc, Chính phủ dự kiến bố trí 23 ga hành khách, mỗi vị trí ga quy hoạch không gian phát triển từ 200 đến 500ha. 5 ga hàng hóa có quy mô mỗi ga khoảng 24,5ha.
Báo cáo Quốc hội về phương án giải phóng mặt bằng, tái định cư, Chính phủ cho biết sơ bộ tổng nhu cầu sử dụng đất của dự án khoảng 10.827ha; số dân tái định cư khoảng 120.836 người. Dự án này sẽ được thực hiện theo hình thức đầu tư công với tổng mức đầu tư sơ bộ hơn 1,7 triệu tỷ đồng (khoảng 67,34 tỷ USD).
Dự kiến nguồn vốn ngân sách Nhà nước bố trí trong các kỳ kế hoạch đầu tư công trung hạn để đầu tư hoàn thành dự án vào năm 2035, bố trí vốn trong khoảng 12 năm (từ năm 2025 đến năm 2037), bình quân mỗi năm khoảng 5,6 tỷ USD - tương đương khoảng 1,3% GDP năm 2023 và khoảng 1% GDP năm 2027 (thời điểm khởi công dự án). Quá trình triển khai sẽ huy động đa dạng các nguồn vốn hợp pháp để đầu tư. Về tiến độ, Chính phủ tính toán hoàn thành công tác lập và phê duyệt báo cáo nghiên cứu khả thi, thiết kế vào năm 2025- 2026; khởi công dự án năm 2027; phấn đấu cơ bản hoàn thành toàn tuyến năm 2035.
Theo báo cáo của Chính phủ, dự án đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam sẽ góp phần tăng cường kết nối các cực tăng trưởng, mở ra không gian phát triển kinh tế mới; tăng năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Dự án nếu được phê duyệt sẽ tạo tiền đề quan trọng để đưa Việt Nam trở thành nước phát triển, có thu nhập cao; tạo động lực phát triển công nghiệp đường sắt, công nghiệp hỗ trợ. Bên cạnh đó, đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam được kỳ vọng góp phần phát triển phương thức vận tải bền vững, hiện đại, thân thiện, làm giảm tai nạn giao thông, ô nhiễm môi trường.
Cần đánh giá toàn diện hơn đối với phương án tài chính của dự án
Trình bày Báo cáo thẩm tra về chủ trương đầu tư dự án đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc – Nam, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Vũ Hồng Thanh đề nghị bổ sung, đánh giá toàn diện hơn đối với phương án tài chính của dự án trong giai đoạn vận hành, khai thác đặt trong tổng thể nhu cầu nguồn vốn đầu tư công và bổ sung kinh nghiệm quốc tế trong việc tổ chức, vận hành, khai thác đường sắt tốc độ cao. Báo cáo thẩm tra nêu rõ, dự án đáp ứng các tiêu chí dự án quan trọng quốc gia thuộc thẩm quyền Quốc hội quyết định chủ trương đầu tư theo quy định tại Điều 7 Luật Đầu tư công. Cụ thể, sơ bộ tổng mức đầu tư dự án 1.713.548 tỷ đồng (trên 10.000 tỷ đồng). Dự án cần chuyển mục đích sử dụng rừng đặc dụng 242,9 ha (trên 50 ha), rừng phòng hộ 652,6 ha (trên 500 ha), rừng sản xuất 1.671,3 ha (trên 1.000 ha). Dự án cần chuyển mục đích sử dụng đất trồng lúa nước từ 2 vụ trở lên 3.102 ha (trên 500 ha).
Ủy ban Kinh tế đề nghị trong bước nghiên cứu khả thi, Chính phủ chỉ đạo các cơ quan liên quan rà soát kỹ lưỡng, lựa chọn phương án tối ưu kết nối tuyến đường sắt tốc độ cao với mạng lưới đường sắt quốc gia, đường sắt đô thị, hệ thống giao thông khác; mạng lưới đường sắt trong khu vực, quốc tế và lợi ích của việc đồng thời nâng cấp đường sắt hiện hữu để vận chuyển hàng hóa, khách du lịch..
Tán thành đầu tư dự án theo hình thức đầu tư công, song Ủy ban Kinh tế đề nghị làm rõ một số vấn đề về hiệu quả của dự án. Về hiệu quả tài chính, Ủy ban Kinh tế đề nghị làm rõ các cơ sở tính toán dự báo về nhu cầu vận tải của dự án, khi thực tế thời gian qua việc dự báo nhu cầu vận tải của nhiều dự án giao thông BOT có sự chênh lệch lớn so với thực tế, dẫn đến thiếu hiệu quả về phương án tài chính phải điều chỉnh hợp đồng dự án…
Về các cơ chế, chính sách đặc thù, đặc biệt triển khai đầu tư dự án, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế cho rằng, dự án có vai trò quan trọng, mang tính chiến lược dài hạn, tác động sâu, rộng tới mọi mặt của nền kinh tế - xã hội nước ta và có quy mô rất lớn, yêu cầu về công nghệ kỹ thuật phức tạp, lần đầu tiên được triển khai thực hiện ở Việt Nam. Do đó, để bảo đảm tính khả thi, hiệu quả cho dự án thì việc cho phép áp dụng một số cơ chế, chính sách đặc thù, đặc biệt là rất cần thiết. Chính phủ đề xuất 19 nhóm cơ chế, chính sách đặc thù, đặc biệt khác quy định pháp luật hiện hành, do đó đề nghị bổ sung đánh giá tác động đầy đủ, kỹ lưỡng hơn, để có giải pháp phù hợp nhằm hạn chế, khắc phục các tác động tiêu cực và báo cáo, xin ý kiến cơ quan có thẩm quyền về nội dung của các cơ chế, chính sách đặc thù, đặc biệt. Về cơ bản các cơ chế, chính sách đề xuất là cần thiết, trong đó một số cơ chế, chính sách đã được Quốc hội cho phép thời gian qua, tuy nhiên đề nghị tiếp tục rà soát, chỉnh lý các cơ chế, chính sách để đảm bảo phù hợp và hiệu quả.
Cụ thể, việc xây dựng kế hoạch đầu tư công trung hạn mỗi giai đoạn được thực hiện theo quy định của Luật Đầu tư công, việc xác định mức vốn bố trí mỗi kỳ trung hạn của dự án cần được tính toán, xác định rõ và nằm trong tổng thể Kế hoạch đầu tư công trung hạn cũng như trong kế hoạch tài chính 05 năm quốc gia và kế hoạch vay, trả nợ công của từng giai đoạn. Vì vậy, một số ý kiến cho rằng, việc bố trí vốn trung hạn của dự án và điều chỉnh kế hoạch đầu tư công trung hạn cần trình Quốc hội xem xét, quyết định. Đối với việc điều chỉnh kế hoạch đầu tư công hằng năm, Uỷ ban Kinh tế cho rằng, cần có chính sách đặc thù giao Thủ tướng Chính phủ quyết định điều chỉnh kế hoạch vốn ngân sách trung ương hằng năm giữa các bộ, cơ quan trung ương và địa phương để bố trí vốn cho dự án.
Uỷ ban Kinh tế đánh giá dự án dự kiến sử dụng nguồn vốn rất lớn, do đó cần được xem xét kỹ lưỡng và thận trọng để bảo đảm cân đối nguồn lực chung của cả đất nước cũng như bảo đảm tính khả thi về nguồn vốn triển khai thực hiện dự án, đồng thời phải bảo đảm thực hiện đúng quy định của Bộ Chính trị.