Ngoại giao văn hóa gia tăng “sự nhận diện Việt Nam” trên toàn cầu
Không chỉ cụ thể hóa phương châm chiến lược “lấy địa phương, người dân, doanh nghiệp làm trung tâm”, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Hà Kim Ngọc trong bài phỏng vấn trước thềm năm mới khẳng định, ngoại giao văn hóa năm 2022 ghi nhận nhiều điểm sáng, với những thuận lợi và xung lực mới để gia tăng "sự nhận diện Việt Nam".
Điểm sáng ngoại giao văn hóa năm 2022
Theo Thứ trưởng Hà Kim Ngọc, sau một năm triển khai chiến lược ngoại giao văn hóa đến năm 2030 được Thủ tướng ban hành tháng 11/2021, công tác ngoại giao văn hóa của Việt Nam có nhiều điểm sáng, bao gồm việc thúc đẩy và làm sâu sắc hơn quan hệ với các nước trên tất cả các kênh Đảng, Chính phủ, Quốc hội và nhân dân.
Năm qua, chúng ta đã chú trọng đưa nội hàm văn hóa vào các hoạt động của lãnh đạo cấp cao thăm các nước và trong việc đón tiếp lãnh đạo các nước tới Việt Nam; đăng cai tổ chức các hội nghị, sự kiện khu vực, quốc tế lớn ở trong nước, tiêu biểu như SEA Games 31 hay ở nước ngoài, tiêu biểu như Chương trình Ngày Việt Nam tại Hàn Quốc, Áo, Ấn Độ.
Việt Nam đồng thời thúc đẩy hội nhập sâu, rộng trong các lĩnh vực văn hoá, khoa học, giáo dục tại các diễn đàn quốc tế, tiêu biểu là tại tổ chức UNESCO. Năm 2022 Việt Nam đã trúng cử với số phiếu cao nhất vào Uỷ ban Liên chính phủ Công ước UNESCO về di sản văn hóa phi vật thể, lần đầu tiên cùng một lúc đảm nhiệm vai trò thành viên 3 cơ chế quan trọng của UNESCO. Chuyến thăm Việt Nam của người đứng đầu UNESCO năm qua cũng là một điểm nhấn đáng chú ý.
Cũng theo Thứ trưởng Bộ Ngoại giao, năm qua, Việt Nam đã tăng cường các biện pháp ngoại giao văn hóa phục vụ phát triển bền vững đất nước. Việt Nam vui mừng có thêm 4 danh hiệu/di sản được quốc tế ghi danh gồm nghệ thuật làm gốm của người Chăm được UNESCO ghi danh vào danh sách di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp; Bia ma nhai Ngũ Hành Sơn và Hệ thống văn bản làng Trường Lưu, Hà Tĩnh (1689 – 1943) được ghi danh vào Danh mục Di sản tư liệu Châu Á – Thái Bình Dương; Thành phố Sa Đéc được chính thức trở thành thành viên Mạng lưới thành phố học tập toàn cầu của UNESCO.
Đưa Việt Nam trở thành điểm đến văn hóa hấp dẫn
Trao đổi về việc năm 2022, Việt Nam trúng cử Ủy ban liên chính phủ Công ước 2003 về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể của UNESCO và có thêm 44 danh hiệu/di sản được quốc tế ghi danh, Thứ trưởng Hà Kim Ngọc nhận định, Việt Nam đã trải qua hàng ngàn năm dựng nước, qua nhiều thời kỳ lịch sử cùng hàng ngàn lớp di sản của các nền văn hóa được hình thành. Đất nước ta cũng được thiên nhiên ưu đãi, ban tặng nhiều cảnh quan, di sản có giá trị. Chính những di sản văn hóa đó đã và đang góp phần đưa hình ảnh đất nước, con người Việt Nam đến với bạn bè quốc tế, thu hút đông đảo khách du lịch nước ngoài.
Cùng với các danh hiệu mới ghi danh, hiện Việt Nam đã có 8 di sản thế giới, 15 di sản văn hóa phi vật thể, 9 di sản văn hóa tư liệu, 11 khu dự trữ sinh quyển thế giới, 3 công viên địa chất toàn cầu UNESCO và các danh hiệu khác như thành phố sáng tạo, thành phố học tập toàn cầu, Nghị quyết liên quan đến việc vinh danh các danh nhân.
Việc tiếp cận với các quy định, cam kết mà UNESCO đặt ra đã giúp Việt Nam nâng cao tiêu chuẩn của công tác quản lý, bảo tồn và phát huy giá trị di sản, gắn kết việc bảo vệ di sản trong xây dựng chiến lược, quy hoạch phát triển địa phương, cân bằng giữa bảo tồn và phát triển, hướng tới phát triển bền vững.
Tăng cường ngoại giao văn hóa, gia tăng "sức mạnh mềm" quốc gia
Nhận định về vai trò của ngoại giao văn hóa trong quảng bá hình ảnh đất nước, Thứ trưởng Hà Kim Ngọc cho rằng, những năm gần đây, tuy hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, song các nguy cơ, thách thức cũng có chiều hướng gia tăng, nhất là tác động từ cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn. Trước bối cảnh đó, các nước dù lớn hay nhỏ đều tăng cường công tác ngoại giao văn hóa trong đối ngoại nhằm tạo dựng lòng tin, củng cố ảnh hưởng và gia tăng “sức mạnh mềm” quốc gia.
Với Việt Nam, ngoại giao văn hóa đã được ông cha ta vận dụng linh hoạt, khéo léo trong công cuộc đấu tranh, bảo vệ và xây dựng đất nước. Thành tố tạo nên nét đặc sắc của NGVH Việt Nam chính là từ lịch sử hào hùng với tinh thần anh dũng, không khất phục trước áp bức, cường quyền, luôn đấu tranh vì hòa bình, công bằng, tiến bộ xã hội; là từ những giá trị văn hóa phong phú, độc đáo hình thành bởi 54 dân tộc anh em chung sống gắn bó, thuận hòa; từ đất nước tươi đẹp, sức sống với danh lam, thắng cảnh kỳ vĩ, nên thơ và từ chính con người Việt Nam nhân ái, khoan dung, đoàn kết, sáng tạo, trí tuệ, hiếu khách.
Ngày nay, vai trò của ngoại giao văn hóa được xác định rõ trong “Chiến lược ngoại giao văn hóa đến năm 2030”, đó là đưa quan hệ Việt Nam với các đối tác đi vào chiều sâu, ổn định; bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc, tạo lập và giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; huy động nguồn lực bên ngoài, biến điều kiện thuận lợi, vị thế đất nước thành nguồn lực để phát triển kinh tế - xã hội; đồng thời tôn vinh các giá trị, vẻ đẹp của văn hóa Việt Nam, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, qua đó khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, tăng cường sức mạnh mềm, nâng cao vị thế quốc gia.
Vai trò của ngoại giao văn hóa tiếp tục được khẳng định trong Văn kiện Đại hội XIII, cụ thể là “đóng góp thiết thực vào quảng bá mạnh mẽ hình ảnh quốc gia và tăng cường sức mạnh tổng hợp của đất nước”.
4 "bí kíp" gia tăng “sự nhận diện Việt Nam” trên phạm vi toàn cầu
Trong bối cảnh tình hình thế giới diễn biến phức tạp, khó lường; đặc biệt cuộc cách mạng khoa học - công nghệ sẽ tạo ra những tác động mạnh mẽ, nhiều chiều, Thứ trưởng Hà Kim Ngọc đánh giá, các nước ngày càng coi trọng vai trò của ngoại giao trong quảng bá hình ảnh quốc gia, tăng cường sức mạnh mềm, nâng cao vị thế.
Đối với Việt Nam, chiến lược ngoại giao văn hóa đến năm 2030 đã xác định ngoại giao văn hóa thông qua các công cụ văn hóa trong ngoại giao góp phần quảng bá hình ảnh đất nước, văn hóa và con người Việt Nam với cộng đồng quốc tế, tôn vinh trí tuệ, phẩm chất, cốt cách, lý tưởng cao đẹp của người Việt Nam và nâng tầm giá trị văn hóa Việt; tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, qua đó khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, tăng cường sức mạnh mềm, nâng cao vị thế đất nước.
"Việt Nam chúng ta cũng đang sở hữu những tài sản vô giá thuộc “sức mạnh mềm”, hiếm dân tộc nào có được. Các nước châu Phi, Mỹ La-tinh ngưỡng mộ, coi Việt Nam “2 lần Anh hùng” - Anh hùng trong Đấu tranh giải phóng dân tộc và Anh hùng trong Đổi mới và phát triển. Nhiều lãnh đạo quốc tế trong trao đổi với lãnh đạo ta nêu: Việt Nam đang nổi lên như một nhân tố tích cực, góp phần duy trì hòa bình, ổn định, hợp tác; Việt Nam chính là câu trả lời cho nhiều vấn đề phức tạp của thế giới hiện nay", Thứ trưởng Hà Kim Ngọc khẳng định.
Từ đó, Thứ trưởng nêu bật 4 bí kíp để gia tăng “sự nhận diện Việt Nam” trên phạm vi toàn cầu, bao gồm:
Thứ nhất, tiếp tục nghiên cứu, đổi mới hình thức quảng bá hình ảnh đất nước, văn hóa và con người Việt Nam với thế giới; lồng ghép các hoạt động quảng bá văn hoá với các chương trình xúc tiến thương mại, xây dựng thương hiệu quốc gia, thương hiệu địa phương… để văn hóa thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, thu hút các nguồn lực bên ngoài, nhất là tri thức, công nghệ và đầu tư, cho phát triển kinh tế-xã hội.
Thứ hai, tiếp tục quảng bá các giá trị văn hóa, hình ảnh đất nước, con người Việt Nam, trong đó chú trọng việc lan tỏa các giá trị, tư tưởng, quan điểm nhân sinh quan, thế giới quan tiến bộ và cao đẹp của dân tộc Việt Nam, đặc biệt là thông qua hình ảnh, giá trị tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh và các danh nhân được UNESCO vinh danh.
Thứ ba, các hoạt động ngoại giao văn hóa phải được triển khai ngày càng sáng tạo, bài bản với sự phối hợp nhịp nhàng của các bộ, ngành, địa phương, kiều bào ở nước ngoài theo phương châm “lấy địa phương, người dân, doanh nghiệp làm trung tâm”. Trong đó, người Việt Nam ở nước ngoài sẽ là những “Đại sứ văn hoá Việt Nam” trong việc quảng bá văn hoá Việt Nam ở sở tại.
Thứ tư, trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, ngoại giao văn hóa cần tiếp cận nhanh với tri thức mới của nhân loại, tranh thủ tối đa các nguồn lực để phục vụ phát triển bền vững đất nước, đặc biệt là trên các lĩnh vực ưu tiên như phát triển ngành công nghiệp văn hóa, công nghiệp sáng tạo, hợp tác quốc tế về khoa học công nghệ, giáo dục đào tạo…
Cần tăng cường kết hợp sức mạnh mềm của văn hóa với chiến lược truyền thông để gia tăng sức mạnh tổng hợp quốc gia. Trong đó cần chú ý tận dụng thế mạnh của các sản phẩm kỹ thuật số đi cùng với chiến lược xây dựng hệ thống các sản phẩm ngoại giao văn hóa có chất lượng tốt, đáp ứng đặc điểm và nhu cầu thụ hưởng đa dạng của công chúng quốc tế, đặc biệt là giới trẻ, người dân trong và ngoài nước.