Điều khoản kỹ thuật số trong hợp tác quốc tế
Khu vực châu Á - Thái Bình Dương là nơi có nhiều nền kinh tế phát triển nhanh nhất thế giới, chiếm 60% dân số thế giới và khoảng 50% người dùng Internet toàn cầu. Khu vực này không chỉ dẫn đầu sự đổi mới sáng tạo kỹ thuật số của thế giới mà còn có cơ hội lớn để đi trước với sức mạnh tổng hợp của những công nghệ mới này. Do đó, việc đưa điều khoản kỹ thuật số vào trong các thỏa thuận ở châu Á - Thái Bình Dương là hết sức quan trọng.
Việc các hiệp định thương mại ở châu Á-Thái Bình Dương bao gồm nhiều điều khoản thương mại kỹ thuật số đã trở nên phổ biến hơn. Để hiểu được đặc điểm nổi bật của các thỏa thuận này thì việc vạch ra các đặc điểm chính cơ bản của chúng sẽ rất hữu ích. Làm như vậy cũng cho biết các hiệp định thương mại kỹ thuật số có thể đi đến đâu hoặc cần phải đi đến đâu.
Kể từ năm 2000, tất cả các hiệp định thương mại tự do (FTA) đều có các chương về thương mại điện tử hoặc thương mại kỹ thuật số với sự tham gia của các nước chủ chốt trong khu vực như: Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, Australia, New Zealand, Singapore, Việt Nam và Malaysia. Nó cũng bao gồm các hiệp định FTA lớn trong khu vực - Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP), Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định Mỹ - Mexico - Canada và Hiệp định Thương mại và Kinh tế toàn diện EU - Canada (CETA) - cũng như hai hiệp định thương mại kỹ thuật số độc lập là Hiệp định Đối tác kinh tế kỹ thuật số (DEPA) với sự tham gia của Singapore, New Zealand, Chile và Hiệp định Kinh tế kỹ thuật số (SADEA). Nếu sử dụng CPTPP làm cơ sở thì các điều khoản thương mại kỹ thuật số trong các hiệp định thương mại này có thể được nhóm thành 4 loại.
Thứ nhất, có 6 điều khoản được thiết kế để tạo thuận lợi cho thương mại kỹ thuật số, bao gồm xóa bỏ thuế hải quan đối với việc truyền dữ liệu điện tử, không phân biệt đối xử với các sản phẩm kỹ thuật số, các khuôn khổ giao dịch điện tử trong nước, xác thực điện tử, chữ ký điện tử và các điều khoản giao dịch không cần giấy tờ. Các điều khoản này là nhằm mở rộng và điều chỉnh môi trường pháp lý để cho phép thương mại kỹ thuật số hoạt động.
Thứ hai, có 5 điều khoản giúp giảm thiểu gánh nặng thương mại và quy định cho các nhà cung cấp thương mại dịch vụ kỹ thuật số, bao gồm quyền truy cập và sử dụng Internet cho thương mại điện tử, luồng dữ liệu tự do, cấm các yêu cầu bản địa hóa dữ liệu, cấm ép buộc chuyển giao mã nguồn và dữ liệu mở của chính phủ. Bằng cách loại bỏ những trở ngại này, các dịch vụ kỹ thuật số sẽ có thể lưu thông tự do hơn giữa các quốc gia.
Thứ ba, 3 điều khoản bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng bao gồm bảo vệ người tiêu dùng trực tuyến, quyền riêng tư, bảo vệ thông tin cá nhân và bảo vệ chống lại các tin nhắn điện tử thương mại không được yêu cầu (tin nhắn rác). Bằng cách giải quyết các mối lo ngại chính của người tiêu dùng, các điều khoản này sẽ giúp tăng lòng tin của người tiêu dùng trong hoạt động thương mại dịch vụ kỹ thuật số và thúc đẩy tỷ lệ sử dụng dịch vụ kỹ thuật số.
Loại cuối cùng bao gồm 4 điều khoản duy trì quyền tự chủ về quy định của các chính phủ, chẳng hạn như các điều khoản về an ninh mạng, ngoại lệ và hợp tác. Những điều khoản này giúp các chính phủ dành không gian cần thiết để giải quyết các mục tiêu chính sách xã hội khác nhau và đảm bảo các yêu cầu về an toàn và an ninh quốc gia.
Loại điều khoản đầu tiên là phổ biến nhất với hơn 3/4 các hiệp định FTA, trong đó có ít nhất 2 hiệp định từ loại này. Những điều khoản này có mục đích thiết lập cơ sở hạ tầng hoặc những liên kết quy định cần thiết để tạo thuận lợi cho hoạt động thương mại kỹ thuật số nhưng không quy định một cách tiếp cận cụ thể về các vấn đề nhạy cảm. Như vậy, những điều khoản này ít vấp phải sự phản đối của các chính phủ nhất.
Loại điều khoản thứ hai tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động thương mại dịch vụ kỹ thuật số bằng cách loại bỏ hoặc cố gắng giảm thiểu các rào cản quy định cản trở dòng chảy thương mại kỹ thuật số. Cũng như các hiệp định thương mại thế hệ trước, người ta thường cho rằng đối tượng hưởng lợi chính của các biện pháp này sẽ là các nhà cung cấp dịch vụ ở nước ngoài đến từ các nền kinh tế phát triển lớn hơn. Do đó, nhiều nước đang phát triển miễn cưỡng đồng ý với các điều khoản này. Vấn đề không chỉ là kinh tế vì nó một lần nữa liên quan đến việc thiếu năng lực của các cơ quan quản lý.
Loại điều khoản thứ ba không trực tiếp đóng góp vào sự phát triển của thương mại dịch vụ kỹ thuật số, nhưng đóng góp gián tiếp bằng cách thúc đẩy một môi trường đáng tin cậy giúp giảm bớt mối lo ngại của người tiêu dùng. Nhưng, các nước đang phát triển thường thiếu các luật và quy định trong nước để có thể giải quyết những vấn đề thuộc nhóm này.
Loại điều khoản thứ tư thúc đẩy quyền lực của chính phủ đối với các công ty kỹ thuật số. Các điều khoản như vậy cung cấp cho chính phủ không gian điều động cần thiết để kiểm soát các dịch vụ kỹ thuật số. Điều này rất quan trọng đối với nhiều nước đang phát triển vì phần lớn thương mại dịch vụ kỹ thuật số được cung cấp bởi các nhà cung cấp nước ngoài. Chính vì lẽ đó mà các điều khoản này rất phổ biến, với hơn 70% các FTA được khảo sát bao gồm ít nhất một điều khoản trong danh mục này.
Để thúc đẩy sự phát triển của lĩnh vực này, các nước đang phát triển ở châu Á sẽ cần tăng cường các điều khoản trong nhóm thứ hai và thứ ba. Với sự phức tạp của thương mại kỹ thuật số, nếu cho rằng chỉ bao gồm các điều khoản này sẽ thúc đẩy thương mại là không thực tế. Thay vào đó, điều này cần được thực hiện cùng với việc xây dựng cơ sở hạ tầng thương mại kỹ thuật số và một môi trường pháp lý tạo ra sự cân bằng giữa kiểm soát rủi ro và tự do hóa thị trường.