Sửa đổi khung pháp lý hải quan: Lợi ích kép cho doanh nghiệp và cơ quan quản lý

Sửa đổi khung pháp lý hải quan: Lợi ích kép cho doanh nghiệp và cơ quan quản lý -0
Sửa đổi khung pháp lý hải quan: Lợi ích kép cho doanh nghiệp và cơ quan quản lý -0
Sửa đổi khung pháp lý hải quan: Lợi ích kép cho doanh nghiệp và cơ quan quản lý -0

Chính phủ ban hành Nghị định số 167/2025/NĐ-CP ngày 30/6/2025 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 08/2015/NĐ-CP (đã được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định số 59/2018/NĐ-CP) được xem là bước đi quan trọng, mang ý nghĩa chiến lược đối với tiến trình cải cách và hiện đại hóa hải quan Việt Nam.

Nghị định số 167/2025/NĐ-CP đã điều chỉnh nhiều quy định nhằm bảo đảm phù hợp với mô hình tổ chức bộ máy mới của Cục Hải quan.

Sửa đổi khung pháp lý hải quan: Lợi ích kép cho doanh nghiệp và cơ quan quản lý -0

Theo đó, các quy định liên quan đến thông quan hàng hóa tập trung được sửa đổi theo hướng xác định rõ cơ quan thực hiện thủ tục hành chính là Chi cục Hải quan khu vực quản lý địa điểm tập kết, kiểm tra, giám sát tập trung hoặc nơi dự kiến làm thủ tục hải quan, nơi có cơ sở sản xuất, dự án. Đồng thời, hàng loạt điều khoản đã được sửa đổi để cập nhật tên gọi, chức danh, thẩm quyền của các đơn vị, cá nhân theo cơ cấu tổ chức mới, bảo đảm thống nhất và tránh vướng mắc trong thực thi.

Một trong những điểm nhấn quan trọng của Nghị định số 167/2025/NĐ-CP là việc đẩy mạnh cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính, giảm thành phần hồ sơ và thúc đẩy thực hiện thủ tục hải quan điện tử.

Nghị định đã thu hẹp đáng kể các trường hợp được khai hồ sơ giấy, qua đó khuyến khích và tiến tới yêu cầu người khai hải quan thực hiện thủ tục điện tử. Nhiều loại chứng từ không còn cần thiết đã được bãi bỏ, như hồ sơ đối với hàng hóa trung chuyển, hợp đồng quá cảnh, một số văn bản liên quan đến tái nhập, tái xuất hàng hóa, hay giấy đăng ký phương tiện trong hồ sơ hải quan.

Đặc biệt, sửa đổi khoản 1 Điều 37 về trách nhiệm của người khai hải quan khi thông báo cơ sở gia công, sản xuất hàng hóa xuất khẩu, nơi lưu giữ nguyên liệu, vật tư, máy móc, thiết bị, sản phẩm xuất khẩu, theo đó, người khai hải quan chỉ cần có văn bản thông báo có cơ sở sản xuất, cam kết thực hiện sản xuất kinh doanh đúng ngành nghề đã được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt. Người khai khải quan không cần xuất trình các chứng từ về giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, chứng từ chứng minh quyền sử dụng, quyền sở hữu về cơ sở sản xuất, mặt bằng sản xuất tại thời điểm nhập khẩu nguyên liệu, vật tư, máy móc thiết bị. Đồng thời, bỏ các quy định phải thông báo về Điều lệ tổ chức hoạt động, sổ cổ đông, báo cáo tài chính đối với trường hợp nhập khẩu để sản xuất xuất khẩu nhưng sau đó thuê gia công lại…

Sửa đổi khung pháp lý hải quan: Lợi ích kép cho doanh nghiệp và cơ quan quản lý -0
 

Một số nội dung sửa đổi theo hướng đơn giản hóa thành phần hồ sơ hải quan, đẩy mạnh việc thực hiện thủ tục hành chính trên hệ thống xử lý dữ liệu điện tử hải quan, cụ thể: Bỏ “hợp đồng quá cảnh” tại Điều 43 (hồ sơ đối với hàng hóa quá cảnh); bỏ “văn bản của bên nước ngoài thông báo hàng bị trả lại hoặc văn bản của hãng tàu/ đại lý hãng tàu thông báo không có người nhận” tại Điều 47 (hồ sơ hải quan tái nhập hàng hóa đã xuất khẩu); bỏ “văn bản chấp nhận nhận lại hoặc chỉ định xuất cho bên thứ ba của chủ hàng nước ngoài” tại Điều 48 (hồ sơ hải quan tái xuất hàng hóa nhập khẩu đã hoàn thành thủ tục hải quan); bỏ quy định nộp giấy đăng ký phương tiện tại hồ sơ hải quan tại Điều 74, Điều 75, Điều 79, “Doanh nghiệp chỉ cần có văn bản thông báo và cam kết thực hiện đúng ngành nghề, không còn phải xuất trình hàng loạt giấy tờ như trước đây. Điều này giúp giảm chi phí tuân thủ, tạo thuận lợi thực chất cho doanh nghiệp”, đại diện Cục Hải quan nhấn mạnh.

Nghị định số 167/2025/NĐ-CP đã sửa đổi, bổ sung nhiều quy định liên quan đến trị giá hải quan, kiểm tra thực tế hàng hóa, giám sát lấy mẫu, thủ tục quá cảnh, trung chuyển, tạm nhập tái xuất, phương tiện vận tải xuất nhập cảnh, kiểm tra sau thông quan… Qua đó, khắc phục các bất cập kéo dài, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về hải quan.
Sửa đổi khung pháp lý hải quan: Lợi ích kép cho doanh nghiệp và cơ quan quản lý -0
Sửa đổi khung pháp lý hải quan: Lợi ích kép cho doanh nghiệp và cơ quan quản lý -0
Sửa đổi khung pháp lý hải quan: Lợi ích kép cho doanh nghiệp và cơ quan quản lý -0

Trong bối cảnh hướng tới hải quan số, doanh nghiệp xuất nhập khẩu cần chủ động chuẩn hóa dữ liệu, hồ sơ trên môi trường số; nâng cao năng lực quản trị nội bộ, tuân thủ pháp luật và quản lý rủi ro; đồng thời đầu tư hạ tầng công nghệ thông tin để bảo đảm kết nối, chia sẻ dữ liệu hiệu quả với cơ quan hải quan. Việc chủ động thích ứng không chỉ giúp doanh nghiệp tận dụng lợi ích từ cải cách, mà còn nâng cao năng lực cạnh tranh trong dài hạn.

Việc ban hành Nghị định số 167/2025/NĐ-CP có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong bối cảnh thực tiễn thi hành pháp luật hải quan thời gian qua đã phát sinh một số vướng mắc, bất cập cần được kịp thời tháo gỡ. Trên cơ sở đó, Nghị định đã sửa đổi, bổ sung các quy định theo đúng chủ trương, đường lối của Đảng, bám sát chỉ đạo của Chính phủ về cải cách thủ tục hành chính, chuyển đổi số và tạo thuận lợi thương mại; qua đó bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ với Luật Hải quan và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan, cũng như phù hợp với các cam kết, điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.

Hiện nay, theo tinh thần Nghị quyết số 57-NQ/TW, tại Nghị định 167/2025/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung khoản 1 và khoản 2 Điều 11 Nghị định số 08/2015/NĐ-CP đã sửa đổi, bổ sung quy định về hồ sơ cần nộp khi doanh nghiệp đề nghị áp dụng chế độ ưu tiên theo 2 nhóm và quy định này đã cắt giảm chi phí tuân thủ khi thực hiện thủ tục hành chính so với quy định hiện hành, cụ thể: Nhóm doanh nghiệp thông thường: số lượng hồ sơ đã giảm 1 loại hồ sơ (giấy chứng nhận doanh nghiệp công nghệ cao, giấy chứng nhận khác…), theo đó chi phí tuân thủ đã giảm 2% so với hiện hành; Nhóm doanh nghiệp theo  Nghị quyết số 57-NQ/TW: số lượng hồ sơ đã giảm 2 loại hồ sơ (Báo cáo tình hình, thống kê số liệu xuất khẩu, nhập khẩu của doanh nghiệp trong 2 năm gần nhất; Báo cáo chấp hành pháp luật về hải quan, pháp luật về thuế, pháp luật về kế toán trong 2 năm gần nhất); theo đó chi phí tuân thủ đã giảm 4% so với hiện hành. Ngoài ra, thủ tục công nhận đối với nhóm doanh nghiệp theo Nghị quyết số 57-NQ/TW đã được đơn giản hóa bằng hình thức giảm điều kiện khi đánh giá công nhận áp dụng chế độ ưu tiên (không xét 2 điều kiện so với nhóm doanh nghiệp thông thường theo quy định hiện hành, cụ thể là điều kiện về kim ngạch và điều kiện về tuân thủ pháp luật trong 2 năm liên tục).

Sửa đổi khung pháp lý hải quan: Lợi ích kép cho doanh nghiệp và cơ quan quản lý -0

Mặt khác, điều kiện kiểm soát nội bộ đã được quy định chi tiết theo định hướng minh bạch, cụ thể để doanh nghiệp triển khai, đồng thời theo hướng tiệm cận với khuyến nghị của khung tiêu chuẩn an ninh an toàn SAFE của Tổ chức Hải quan thế giới, góp phần đưa chương trình AEO Việt Nam tương đồng với chương trình AEO của các nước, là cơ sở ký kết và triển khai các Thỏa thuận công nhận lẫn nhau với các nước và vùng lãnh thổ trên thế giới, hứa hẹn sẽ mang lại nhiều lợi ích cho các doanh nghiệp trong đó có AEO Việt Nam. Điều kiện kiểm soát nội bộ theo quy định mới được áp dụng từ 15/8/2025 đối với các doanh nghiệp có mong muốn tham gia chương trình AEO Việt Nam (trừ trường hợp doanh nghiệp đã được công nhận áp dụng chế độ ưu tiên từ trước thời điểm Nghị định số 167/2025/NĐ-CP có hiệu lực thì có thời gian hoàn thiện điều kiện kiểm soát nội bộ theo quy định mới trong thời hạn 1 năm kể từ ngày Nghị định số 167/2025/NĐ-CP có hiệu lực theo quy định tại điều khoản chuyển tiếp của Nghị định).

Liên quan đến quy định về xuất nhập khẩu tại chỗ, tại Nghị định số 167/2025/NĐ-CP đã sửa đổi, bổ sung Điều 35  Nghị định số 08/2015/NĐ-CP quy định hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu tại chỗ là: Hàng hoá gia công tại Việt Nam và được thương nhân nước ngoài đặt gia công bán, chuyển giao cho tổ chức, cá nhân tại Việt Nam; Hàng hóa mua bán, thuê, mượn giữa doanh nghiệp Việt Nam với thương nhân nước ngoài và được thương nhân nước ngoài chỉ định giao, nhận hàng hóa với doanh nghiệp tại Việt Nam. Theo quy định tại Luật số 90/2025/QH15 và Nghị định số 167/2025/NĐ-CP thì hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu tại chỗ là hàng hoá giao, nhận tại Việt Nam theo chỉ định của thương nhân nước ngoài theo hợp đồng mua bán, gia công, thuê, mượn giữa các doanh nghiệp Việt Nam với thương nhân nước ngoài, không phân biệt thương nhân nước ngoài là “có hiện diện” hay “không có hiện diện tại Việt Nam”. Khi thực hiện quy định nêu trên sẽ tháo gỡ được điểm nghẽn lớn nhất thời gian qua liên quan đến việc xác định điều kiện “không có hiện diện tại Việt Nam” của thương nhân nước ngoài, đảm bảo tính thống nhất, chặt chẽ của hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, được cộng đồng doanh nghiệp đánh giá cao, đồng thời đảm bảo tính hiệu lực, hiệu quả của việc thực thi chính sách.

Ngoài ra, qua rà soát các quy định của pháp luật về chuyên ngành vẫn có việc quy định người khai hải quan phải nộp chứng từ chuyên ngành bản chính cho cơ quan hải quan, điều này là không phù hợp với yêu cầu điện tử hóa 100% chứng từ thuộc hồ sơ hải quan. Do vậy, để triển khai thực hiện thủ tục hải quan điện tử, chấm dứt việc yêu cầu người khai hải quan phải nộp hồ sơ giấy ngay trong năm 2025 (trừ một số trường hợp đặc biệt) theo tinh thần Nghị quyết 57-NQ/TW, tại Nghị định số 167/2025/NĐ-CP đã sửa đổi quy định tại khoản 2 Điều 33 Nghị định số 08/2015/NĐ-CP quy định về thông báo kết quả kiểm tra chuyên ngành trên Cổng thông tin một cửa quốc gia; trường hợp cơ quan, tổ chức kiểm tra chuyên ngành chưa thực hiện thủ tục kiểm tra, cập nhật kết quả kiểm tra trên Cổng thông tin một cửa quốc gia thì cơ quan hải quan tiếp nhận bản chụp thông báo kết quả kiểm tra do người khai hải quan nộp thông qua Hệ thống xử lý dữ liệu điện tử hải quan.

Đồng thời, Nghị định số 167/2025/NĐ-CP đã sửa đổi Điều 70, 71, 74 Nghị định số 08/2015/NĐ-CP quy định về thủ tục hải quan với PTVT đường bộ, đường sắt, đường thủy nội địa xuất nhập cảnh theo hướng bổ sung nội dung quy định về việc thực hiện khai báo điện tử khi hệ thống CNTT đáp ứng việc khai báo bằng phương thức điện tử.

Việc ban hành Nghị định số 167/2025/NĐ-CP có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, thể hiện rõ quyết tâm của Chính phủ trong việc cải cách thủ tục hành chính, tạo thuận lợi thương mại và thúc đẩy chuyển đổi số trong lĩnh vực hải quan.

Đối với doanh nghiệp, Nghị định giúp tháo gỡ nhiều khó khăn, vướng mắc trong thực hiện thủ tục xuất nhập khẩu, giảm chi phí tuân thủ, nâng cao tính minh bạch và dự đoán được trong áp dụng pháp luật. Thực tiễn triển khai cho thấy cộng đồng doanh nghiệp đã tích cực phản hồi, và các vướng mắc phát sinh đã được cơ quan hải quan kịp thời hướng dẫn, giải đáp thông qua nhiều công văn nghiệp vụ, qua đó củng cố niềm tin và mối quan hệ đồng hành giữa doanh nghiệp và cơ quan quản lý.

Theo Cục Hải quan, để đáp ứng mục tiêu hướng tới hải quan số, theo quy định tại Nghị định, doanh nghiệp xuất nhập khẩu cần chủ động chuẩn bị và điều chỉnh phương thức thực hiện thủ tục hải quan theo hướng điện tử, tự động và minh bạch. Theo đó, doanh nghiệp xuất nhập khẩu cần tập trung vào việc là chuẩn hóa dữ liệu, hồ sơ, chứng từ trên môi trường số; nâng cao năng lực tuân thủ pháp luật, quản trị nội bộ và quản lý rủi ro; đồng thời đầu tư, nâng cấp hạ tầng công nghệ thông tin bảo đảm kết nối, chia sẻ dữ liệu với cơ quan hải quan. Việc chủ động thích ứng sẽ giúp doanh nghiệp tận dụng hiệu quả các lợi ích từ cải cách thủ tục hành chính, rút ngắn thời gian thông quan, giảm chi phí tuân thủ và hạn chế rủi ro phát sinh trong quá trình thực hiện thủ tục hải quan.

Sửa đổi khung pháp lý hải quan: Lợi ích kép cho doanh nghiệp và cơ quan quản lý -0
Sửa đổi khung pháp lý hải quan: Lợi ích kép cho doanh nghiệp và cơ quan quản lý -0
Sửa đổi khung pháp lý hải quan: Lợi ích kép cho doanh nghiệp và cơ quan quản lý -0

Liên quan đến việc sửa đổi Thông tư số 38/2015/TT-BTC và Thông tư số 39/2018/TT-BTC, Cục Hải quan cho biết, qua quá trình tổ chức thực hiện, một số quy định tại Thông tư số 38/2015/TT-BTC và Thông tư số 39/2018/TT-BTC đã bộc lộ những bất cập, chưa theo kịp yêu cầu thực tiễn quản lý và tiến trình cải cách, chuyển đổi số trong lĩnh vực hải quan. Trên cơ sở đó, ngành Hải quan đã chủ động rà soát, nghiên cứu, xây dựng dự thảo Thông tư sửa đổi, bổ sung Thông tư số 38/2015/TT-BTC và Thông tư số 39/2018/TT-BTC, trình cấp có thẩm quyền xem xét, phê duyệt; đồng thời tổ chức lấy ý kiến rộng rãi các bộ, ngành, cơ quan có liên quan và cộng đồng doanh nghiệp xuất nhập khẩu nhằm bảo đảm tính đồng bộ, khả thi và phù hợp với thực tiễn. Đến nay, dự thảo Thông tư sửa đổi đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt và dự kiến có hiệu lực thi hành từ ngày 1/2/2025, qua đó góp phần hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, tạo thuận lợi hơn cho hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, quá cảnh hàng hóa và phương tiện vận tải xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh; đồng thời góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về hải quan.

Việc sửa đổi Luật Hải quan tại Luật số 90/2025/QH15, ban hành Nghị định số 167/2025/NĐ-CP và Thông tư sửa đổi, bổ sung Thông tư số 38/2015/TT-BTC và Thông tư số 39/2018/TT-BTC đã hình thành một hệ thống quy định pháp luật thống nhất, đồng bộ từ luật đến văn bản hướng dẫn thi hành, bảo đảm tính liên thông và khả thi trong tổ chức thực hiện. Trong thực tiễn triển khai, các văn bản này có mối quan hệ chặt chẽ, bổ trợ lẫn nhau, trong đó Luật Hải quan sửa đổi là cơ sở pháp lý cao nhất; Nghị định số 167/2025/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung Nghị định số 08/2015/NĐ-CP cụ thể hóa các nội dung của Luật và Thông tư hướng dẫn chi tiết quy trình, thủ tục hải quan; kiểm tra, giám sát hải quan; thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu và quản lý thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu để bảo đảm áp dụng thống nhất trên toàn quốc.

Việc triển khai đồng bộ các quy định mới đã tạo tác động rõ rệt đối với cả cơ quan hải quan và cộng đồng doanh nghiệp. Đối với cơ quan hải quan, các quy định đã góp phần hoàn thiện cơ sở pháp lý cho cải cách thủ tục hành chính, đẩy mạnh quản lý rủi ro, ứng dụng công nghệ thông tin và nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước. Đối với doanh nghiệp, hệ thống quy định thống nhất, rõ ràng đã tạo thuận lợi trong thực hiện thủ tục xuất khẩu, nhập khẩu, rút ngắn thời gian thông quan, giảm chi phí tuân thủ và nâng cao tính minh bạch, ổn định trong quá trình áp dụng pháp luật. Qua đó, góp phần xây dựng môi trường thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, quá cảnh hàng hóa và xuất nhập cảnh, quá cảnh phương tiện, nâng cao hiệu quả quản lý hải quan, thúc đẩy thương mại và hội nhập quốc tế.

Sửa đổi khung pháp lý hải quan: Lợi ích kép cho doanh nghiệp và cơ quan quản lý -0
Sửa đổi khung pháp lý hải quan: Lợi ích kép cho doanh nghiệp và cơ quan quản lý -0

* Thực hiện: Lưu Hiệp - Đoàn Chi