Mưa lũ lịch sử: Bài học đắt giá trong việc khai thác, sử dụng bãi sông
Theo Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) Lê Minh Hoan, công tác dự báo, cảnh báo mưa lớn, lũ vượt lịch sử; dự báo mưa lũ phục vụ vận hành liên hồ chứa trên lưu vực sông Hồng (nhất là hồ Thác Bà) chưa kịp thời, tin cậy, chưa bám sát thực tế; chưa có bản đồ nguy cơ sạt lở đất lũ quét tới từng thôn, bản để người dân biết.
Chưa có bản đồ nguy cơ sạt lở đất, lũ quét tới từng thôn, bản
Báo cáo của Bộ NN&PTNT cho thấy, bên cạnh những kết quả nổi bật trong triển khai ứng phó, khắc phục hậu quả bão và mưa lũ sau bão số 3, thiệt hại do bão, lũ quét, sạt lở đất vẫn còn rất lớn, với những khó khăn, tồn tại. Các kịch bản, phương án với những tình huống thiên tai lớn, trên diện rộng, khu vực vùng sâu, vùng xa khi bị chia cắt,... còn hạn chế, chưa bài bản, chưa phù hợp thực tế.
Việc cảnh báo tác động, nguy cơ thiệt hại do bão, mưa lũ còn chưa cụ thể, người dân chưa hình dung được những thiệt hại to lớn khi bão đổ bộ cũng như tác động sau khi bão đã đổ bộ, đây cũng là nguyên nhân dẫn đến tư tưởng chủ quan trong ứng phó. Vẫn còn tình trạng chưa thực hiện nghiêm túc, đầy đủ chỉ đạo, khuyến cáo của cơ quan chức năng trong phòng, chống bão dẫn đến thiệt hại đáng tiếc về người và tài sản như ở lại trên tàu thuyền khi neo đậu và tham gia giao thông khi có gió bão. Chưa thực hiện nghiêm túc, triệt để công tác cắt tỉa cành cây, chằng chống, gia cố nhà cửa, công sở, kho tàng, biển báo, biển quảng cáo,… dẫn đến bị tốc mái, gẫy đổ rất nhiều.
Khả năng chống chịu cơ sở hạ tầng nói chung, nhất là nhà dân, công trình phòng, chống thiên tai, cơ sở hạ tầng còn thấp trước sức tàn phá của bão, lũ; hệ thống giao thông thường xuyên xảy ra sạt lở, ngập sâu, chia cắt... (Các tuyến đê biển hiện được thiết kế chống chịu với bão cấp 9-10, triều trung bình 5% nhưng đã chịu tác động của bão cấp 11-12, giật cấp 14 vượt mức thiết kế; hệ thống điện, viễn thông bị thiệt hại nặng nề do gió bão).
Công tác dự báo, cảnh báo sớm, chính xác, phạm vi hẹp nhất là về mưa, lũ, lũ quét, sạt lở đất giữ vai trò quan trọng hàng đầu trong chỉ đạo điều hành, ứng phó với thiên tai. Dự báo, cảnh báo mưa lớn, lũ vượt lịch sử; dự báo mưa lũ phục vụ vận hành liên hồ chứa trên lưu vực sông Hồng (nhất là hồ Thác Bà) chưa kịp thời, tin cậy, chưa bám sát thực tế và yêu cầu của công tác chỉ đạo điều hành.
Chưa có bản đồ nguy cơ sạt lở đất lũ quét tới từng thôn, bản để người dân biết cũng như phục vụ công tác di dời, sắp xếp dân cư, công tác chỉ đạo ứng phó. Ngập lụt diễn ra nghiêm trọng, kéo dài, trên diện rộng tại nhiều địa phương, kể cả đô thị miền núi do quá trình đô thị hoá, xây dựng công trình, lấn chiếm làm giảm khả năng thoát lũ các tuyến sông, suối gây ngập úng kéo dài.
Trình bày tại Hội nghị sơ kết, đánh giá, rút kinh nghiệm về công tác phòng, chống và khắc phục hậu quả bão số 3 mới đây, Bộ trưởng Bộ NN&PTNT Lê Minh Hoan nhận định, đây là trận lũ lớn nhất kể từ năm 1971 trên toàn bộ lưu vực đồng bằng sông Hồng - Thái Bình và là bài học cảnh tỉnh cho các địa phương trong việc khai thác, sử dụng bãi sông. Tình trạng khai thác cát trái phép còn diễn biến phức tạp trên các tuyến sông, nhất là sông Lô uy hiếp đến an toàn đê điều, đã gây sạt trượt thân đê hữu Lô thuộc xã Hùng Long, huyện Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ khi nước rút.
Cần có thiết kế “tràn sự cố” hồ đập
Theo GS.TS Đào Xuân Học, nguyên Thứ trưởng Bộ NN&PTNT, nguyên tắc lớn nhất khi thực hiện quy hoạch liên quan đến một con sông là phải đảm bảo tiêu chí thoát lũ, bởi nó phục vụ công tác phòng, chống thiên tai; phải đảm bảo an toàn tính mạng của người dân trước hết, trên hết, sau đó mới tính tới các yếu tố phát triển kinh tế - xã hội.
Tiêu chuẩn thoát lũ của đồng bằng sông Hồng khi về đến Sơn Tây (TP Hà Nội) là 28.000 mét khối/giây, trong đó đổ vào sông Hồng là 20.000 mét khối/giây; sông Đuống là 8.000 mét khối/giây. Như vậy, cơ bản đảm bảo được. Ngoài ra, chúng ta cũng có dự phòng thoát lũ sang sông Đáy, hiện nay có thể đảm bảo được 2.500 mét khối/giây. Trước đây, chúng ta cũng quy hoạch một số vùng chậm lũ, sau này do điều tiết được nước từ thượng nguồn nên một số vùng không còn nằm trong quy hoạch.
Còn khu vực ngoài hành lang thoát lũ, ông Học cho rằng, có thể tính toán, từ bờ sông đến khu vực nào, khoảng bao nhiêu mét thì có thể trồng hoa, có thể bố trí các hạng mục đáp ứng nhu cầu văn hoá, vui chơi giải trí của người dân. Những khu này có thể không được xây dựng, những năm lũ lớn đương nhiên có thể bị ngập. Khu vực nào được xây dựng, người dân có thể ở, cụ thể bố trí ra sao cần phải tính toán, phối hợp với bên quản lý đê điều.
“Nhưng cần xem bãi sông là một nguồn lực, đáp ứng được nhiều vấn đề về văn hoá, kinh tế - xã hội khi không có lũ lớn. Tham khảo kinh nghiệm của một số nước, họ di dân ở những khu vực sát sông, làm một “siêu đê” rộng vài trăm mét, trên thân đê cho người dân xây dựng nhà cửa, công trình, vừa đảm bảo đời sống người dân, không cần phải lo lũ lụt nữa…”.
Sau đợt mưa lũ vừa qua, chúng ta có thể thấy, an toàn hồ, đập, đặc biệt là đập thuỷ điện là một vấn đề rất đáng lưu ý. Trường hợp hồ Thác Bà là một ví dụ điển hình. Đây là hồ điều tiết nhiều năm, tức là trong nhiều năm mới có một năm đầy hồ. Vậy mà vừa qua, lượng nước về nhiều gấp mấy lần so với năng lực xả của hồ.
Nguyên Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Đào Xuân Học chia sẻ, kinh nghiệm từ các nước, với những trường hợp tương tự, họ có quy định về “tràn sự cố” để đảm bảo an toàn cho công trình và vùng hạ du phía dưới hồ. Liên quan đến bão, lũ, thiên tai, không được chủ quan, bởi đôi khi có sự cố không nói trước được. Cũng không ai có thể khẳng định các hồ đập phía thượng nguồn không bao giờ xảy ra sự cố.
“Vì thế, bây giờ, ngay cả các tuyến đê, rồi các hồ đập rất cần có thiết kế về “tràn sự cố”. Khi lũ bất thường, chúng ta có thể cho tràn qua đó. Sau đợt lũ này, tôi nghĩ phải rà soát, nghiên cứu về vấn đề này. Các nước họ đều làm như vậy. Lúc đó, chỉ cần di dân, sau đó chủ động cho “tràn sự cố” để đảm bảo an toàn cho công trình, đảm bảo an toàn cho cả vùng hạ du”, GS.TS Đào Xuân Học nói.