"Thầy Ba Đợi" – Tình yêu với nghệ thuật cổ truyền

Thứ Sáu, 08/06/2018, 09:03
Những ngày vừa qua, đời sống văn hoá nghệ thuật trong nước được chào đón một sự kiện đặc biệt. Đó là sự kiện sân khấu cải lương cả ba miền Bắc Trung Nam công diễn vở cải lương đặc sắc "Thầy Ba Đợi" đáp ứng nhu cầu của đông đảo khán giả mộ điệu với bộ môn nghệ thuật truyền thống này.


Niềm hy vọng mang tên "Thầy Ba Đợi"

Lần đầu tiên có một vở diễn cải lương thu hút gần 70 diễn viên gạo cội thuộc thế hệ vàng của nghệ thuật cải lương, tập trung những tinh hoa cải lương cả ba miền Bắc Trung Nam trở thành tâm điểm chú ý của dư luận. Tưởng chừng lần đầu tiên sự kết hợp chất liệu từ các miền khác nhau của Tổ quốc sẽ tạo cảm giác khiên cưỡng cho vở diễn, nhưng có lẽ, hiếm khi khán giả cảm nhận được sự hoà quyện tuyệt vời, ăn ý của các anh em nghệ sĩ 3 miền Bắc - Trung - Nam như ở "Thầy Ba Đợi".

"Thầy Ba Đợi" ra mắt công chúng đúng dịp kỷ niệm 100 năm nghệ thuật cải lương Việt Nam, lại đúng dịp cả nước đang trong tuần lễ kỷ niệm ngày Giỗ Tổ Hùng Vương, 43 năm ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất  đất nước, không chỉ như một thông điệp Bắc - Trung - Nam một nhà, mà còn như một niềm hy vọng khởi đầu cho việc chấn hưng nghệ thuật cải lương ở giai đoạn mới, không chỉ bảo tồn, giữ gìn mà còn phát triển để đứng vững và trường tồn trong dòng chảy văn hóa nghệ thuật Việt.

Vở diễn “Thầy Ba Đợi” là một trong những hoạt động đặc sắc kỷ niệm 100 năm sân khấu cải lương.

Vở diễn đã truyền đi một thông điệp lan toả đoàn kết một nhà, chung tay bảo tồn, phát huy những giá trị di sản lịch sử, văn hóa tinh hoa của ông cha để lại mà trong đó có vốn quý nghệ thuật truyền thống.

Bắt nguồn từ kịch bản văn học của PGS - TS Nguyễn Thế Kỷ, vở cải lương "Thầy Ba Đợi" là một đề tài ấp ủ lâu năm, một trăn trở khôn nguôi về việc "uống nước nhớ nguồn", vinh danh nhân tài nghệ thuật dân tộc nhằm bảo tồn phát triển nghệ thuật cải lương Việt Nam, mà PGS.TS Nguyễn Thế Kỷ (Ủy viên Trung ương Đảng, Tổng Giám đốc Đài Tiếng nói Việt Nam, Chủ tịch Hội đồng Lý luận, Phê bình Văn học Nghệ thuật Trung ương) dành nhiều tâm huyết để viết thành kịch bản văn học.

Khai thác nhân vật là danh nhân văn hoá lịch sử, đặt họ trong bối cảnh lịch sử xưa để soi chiếu và đánh giá kỹ càng hơn công lao của họ đối với dân tộc là mảng đề tài mà tác giả Nguyễn Thế Kỷ say mê khám phá và đã có những thành công lớn.

Gặp gỡ và đồng điệu ở tình yêu nghệ thuật, soạn giả Hoàng Song Việt và Phạm Văn Đằng đã chuyển thể kịch bản cải lương, hai đạo diễn xuất sắc NSƯT Triệu Trung Kiên và nghệ sĩ Lê Trung Thảo thực hiện, dưới sự chỉ đạo nghệ thuật của NSND Trần Ngọc Giàu.

 "Thầy Ba Đợi" đã mang đến cho công chúng tiếng nói từ trái tim của những người dân Việt luôn thấm đẫm tinh thần yêu nước, luôn có ý thức gìn giữ những di sản văn hóa quý báu của ông cha. Thông qua hình ảnh một "Thầy đờn", nhạc sư, nhạc quan triều Nguyễn cùng với những bể dâu của giang sơn Việt khi triều Nguyễn buông xuôi quy hàng thực dân Pháp dâng lục tỉnh Nam Kỳ…

"Thầy Ba Đợi" đã xác lập những "kỷ lục" của một vở cải lương mà lâu nay ít vở nào có được khi cống hiến cho khán giả mộ điệu nghe "đã" nhiều bài bản tổ trong số 20 bản tổ cải lương theo tình tiết diễn biến câu chuyện như: Trống Xuân (thuộc Nam Xuân), Nam Ai, Lớp Mái (thuộc Nam Ai), Nam Đảo; Bốn Oán: Giang Nam, Phụng hoàng, Tứ Đại oán; Sáu Bắc: Xuân tình, Phú lục, Tây Thi, Bình bán; Bảy Lễ: Ngũ Đối Thượng… và nhiều bài bản khác trong diễn xuất của các "cây cổ thụ" trong nghệ thuật cải lương như: NSƯT Thanh Tuấn, NSƯT Hùng Minh… đến những thế hệ trẻ như: NSND Vương Hà, NSƯT Lê Tứ, NSƯT Hữu Quốc, NSƯT Quế Trân, Trần Quang Khải, Võ Minh Lâm…

Nhân vật "Thầy Ba Đợi" trong đời thực

Nghệ thuật cải lương Việt Nam ra đời, dựa trên cơ sở Lễ nhạc, Nhã nhạc cung đình, ca Huế, nhạc Hát bội, Đờn ca tài tử. Trải qua nhiều thăng trầm, những đổi thay của lịch sử và đời sống văn hóa xã hội, Cải lương vẫn kiên trì bền bỉ tồn tại, vẫn luôn là một nơi chốn để bám víu tinh thần trong cuộc sống.

Nghệ thuật cải lương có thể nói xuất phát từ cái nôi Nam Bộ, khi đờn ca tài tử phát triển rực rỡ vào những năm cuối thế kỷ 18, đầu thế kỷ 19, đặc biệt từ năm 1918. Rất nhiều "lò" - trường phái đờn ca tài tử với những nghệ nhân danh bất hư truyền tạo lập nên những huyền thoại "Thầy đờn", những ngón đàn trăm năm sau vẫn là vô đối.

Đứng đầu trường phái Tài tử miền Tây là nhạc sư Trần Quang Quờn (Kí Quờn), ông là người tài hoa "cầm - kỳ - thi - họa". Ông soạn lời ca "Bá Lý Hề" theo điệu Văn Thiên Tường và Tứ đại oán vào khoảng những năm đầu 1900. Trường phái này cho ra đời 10 bản Khách, còn gọi là Thập thủ liên hườn gồm: Phẩm tuyết, Nguyên tiêu, Liên hườn, Tây mai, Kim tiền, Hồ quảng, Xuân phong, Long hổ, Tẩu mã, Bình nguyên.

Nhóm này còn có bộ "Tứ bửu" do nhạc sư Lê Tài Khị sáng tác để đáp lại bộ "Ngũ châu" của nhóm miền Đông. Nhạc sư Lê Tài Khị (Hai Khị) còn gọi là nhạc Khị, giới Tài tử - Cải lương miền Tây tôn ông là hậu Tổ nhạc tài tử Nam bộ. Vì không những ông đã có công chấn chỉnh, hiệu đính và hệ thống hóa 20 bản Tổ, mà còn có công đào tạo nhiều thế hệ đệ tử tài hoa, những danh cầm, nhạc sư, soạn giả cải lương nổi tiếng nhất ở miền Tây Nam Bộ, trong đó có nhạc sĩ Cao Văn Lầu (1892 - 1976) là tác giả của bản Dạ cổ hoài lang, nó là tiền thân của bài Vọng cổ nhịp 32 sau này.

Đứng đầu trường phái Tài tử miền Đông là nhạc sư Nguyễn Quang Đại (Thầy đờn Ba Đợi), ông vốn là một nhạc quan của triều Nguyễn. Theo Kỷ yếu Hội thảo khoa học "Đức nghệ nhơn tiền phong nhạc Lễ, nhạc Tài tử Nguyễn Quang Đại", ông từ quan để hưởng ứng phong trào Cần Vương chống Pháp (khoảng năm 1885), và vào Nam dạy nhạc Lễ, nhạc Tài tử.

“Thầy Ba Đợi” nỗ lực truyền nghề cho thế hệ sau.

Ban đầu ông dừng chân dạy nhạc ở Đakao- Sài Gòn và một số nơi ở miền Đông, miền Tây. Riêng ở Cần Đước - Long An là nơi ông sinh sống, truyền dạy nhạc Lễ và nhạc Tài tử Nam Bộ ở đây lâu nhất, và có nhiều học trò nhất so với các nơi. Ông có công chỉnh lí 4 bản Bắc: Lưu thuỷ trường, Phú lục chấn, Bình bán chấn và Cổ bản vắn của ca nhạc Huế thành hơi điệu theo phong cách nhạc tài tử Nam Bộ. Ông còn sáng tác thêm bộ Ngũ châu: Kim tiền bản, Ngự giá, Hồ lan, Vạn liên, Song phi hồ điệp và 8 bản Ngự: Đường Thái Tông, Vọng phu, Chiêu Quân, Ái tử kê, Bát man tấn cống, Tương tư, Quả phụ hàm oan, Duyên kì ngộ. Ông cũng đã đào tạo được nhiều môn đệ thành danh như Sáu Thới, Tám Hạnh, Cao Quỳnh Diêu, Bảy Nhỏ, Sáu Thoàng, Chín Chiêu, Năm Tịnh, Năm Khiết, Ba Đồng, Tư Bường, Nguyễn Văn Thinh… Học trò ông tiếp tục bung ra truyền nghề cho thế hệ sau, với nhiều môn đệ nổi tiếng: Xã Năm, Hương Trì, Tám Điển, Năm Viên (cha Chín Láo), Chín Chiêu, Sáu Thoàng, Năm Tịnh, cô Sáu Lung, cô Bảy Giỏi (thế hệ thứ nhất)...

Thầy Ba Đợi được xem là bậc tiền bối đã đặt nền tảng cho việc truyền bá âm nhạc cung đình Huế trên đất Nam Bộ, sau đó cải biên và định hình 20 bài bản tổ trong nghệ thuật đờn ca tài tử. Từ đây, được phát triển và hình thành sân khấu cải lương.

Từ chỗ thịnh hành ở phương Nam, từ những gánh hát nhỏ, nghệ thuật cải lương đã phát triển ra phía Bắc, hình thành những nhà hát, đoàn cải lương lớn để lại dấu ấn tốt đẹp trong lòng công chúng với nhiều thế hệ nghệ sỹ tài năng.

Vở diễn "Thầy Ba Đợi" một lần nữa làm rõ ý nghĩa tên gọi của môn nghệ thuật này - "Cải lương" và cũng đã đem lại nhiều cung bậc cảm xúc về âm nhạc đờn ca tài tử - cải lương, khiến khán giả biết đến một bậc thầy khai sáng nghệ thuật cải lương Việt Nam với một cuộc đời đầy nước mắt nhưng vô cùng đáng kính trọng.

Xin được kết thúc bài viết này bằng bài thơ "Gập ghềnh ngũ cung" cũng là chủ đề xuyên suốt vở cải lương "Thầy Ba Đợi" của PGS.TS Nguyễn Thế Kỷ: "Chốn cung đình vọng tiếng nhạc ngân/ Đinh - Lý - Trần - Lê - Nguyễn những say mê/ Điệu ngũ cung máu nhuộm trời chiều/ Đường thiên lý hoa tàn trăng khuyết/ Nước non ngàn dặm ra đi/ Đất phương Nam biển rộng, sông dài/ Triệu triệu phù sa châu thổ bồi đắp/ Những đêm trăng câu ca lay động/ Trương Định, Đốc Binh Kiều ngạo nghễ/ Kinh hồn nghịch tặc, máu đỏ tướng quân/ Chấn hưng văn hiến vun nhạc lễ/ Hồn cốt cha ông mãi lưu truyền".

Bình Tâm (tổng hợp)
.
.
.