Phim Việt với đề tài "đền ơn đáp nghĩa"
Phim về đề tài thương binh - liệt sĩ chiếm một tỷ lệ không nhỏ trong kho tàng phim truyện Việt Nam. Điều đáng nói hơn: Phần lớn những phim này đều có chiều sâu tư tưởng, có những phát hiện mới mẻ về chủ đề, về thủ pháp nghệ thuật. Một số phim đã được giải cao trong các Liên hoan phim (LHP) quốc gia và cả một số LHP quốc tế, như các phim: "Nguyễn Văn Trỗi" của đạo diễn Bùi Đình Hạc và Lý Thái Bảo - Giải Bông sen vàng LHP Việt Nam lần thứ nhất (1970), Bằng khen của Hội Nhà báo Liên Xô tại LHP Quốc tế Moskva (1967); phim "Bao giờ cho đến tháng mười" của đạo diễn Đặng Nhật Minh - Giải Bông sen vàng LHP Việt Nam lần thứ 7 (1985), giải đặc biệt của Ban Giám khảo LHP Quốc tế châu Á - Thái Bình Dương (1986). Phim "Cỏ lau" của đạo diễn Vương Đức - Giải Ngọn đuốc vàng LHP Quốc tế tại Bình Nhưỡng (1994); phim "Ngã ba Đồng Lộc" của đạo diễn Lưu Trọng Ninh - Giải Bông sen vàng LHP Việt Nam lần thứ 12 (1999), Bằng khen của Ủy ban Bảo vệ hòa bình thế giới của Triều Tiên - LHP Quốc tế tại Bình Nhưỡng (1994).
Đặc biệt là phim "Đời cát" của đạo diễn Nguyễn Thanh Vân đã đoạt giải phim truyện hay nhất LHP châu Á - Thái Bình Dương năm 2000, Giải Bông sen vàng LHP Việt Nam lần thứ 13 (2001). Ngoài ra, còn một số phim được giải Bông sen bạc…
"Nguyễn Văn Trỗi" là bộ phim truyện đầu tiên làm về chân dung một anh hùng liệt sĩ trẻ tuổi. Đối tượng miêu tả chính của phim không chỉ là một nhân vật có thật đương đại mà còn là vấn đề thời sự nóng hổi, đang được cả nước quan tâm, ngưỡng mộ. Làm thế nào vừa thể hiện được chân thực cuộc đời và khí phách anh hùng của người chiến sĩ lại vừa có sức khái quát, điển hình của một nhân vật phim truyện.
Trong lúc những người làm phim, ngoài tập sách mỏng ghi chép về anh Trỗi (cuốn "Sống như Anh" của Trần Đình Vân), không còn chất liệu nào khác. Đó là khó khăn lớn nhất đối với hai đạo diễn Bùi Đình Hạc và Lý Thái Bảo. Nhưng với lòng mến yêu kính phục sự hy sinh quả cảm của anh Trỗi, những người làm phim đã làm hết sức mình hoàn thành bộ phim với hiệu quả nội dung và nghệ thuật không phụ lòng mong muốn của người xem. Bộ phim không chỉ dừng lại ở một tấm gương sáng ngời chủ nghĩa anh hùng cách mạng cho thế hệ trẻ đương thời mà còn là câu chuyện tình dung dị, giàu tính nhân văn của những người thủy chung son sắt trong nghĩa vợ, tình chồng, dũng cảm, kiên cường trong lý tưởng cách mạng. Bộ phim không chỉ thành công về nội dung, nghệ thuật mà còn đánh dấu được bước phát triển đầu tiên về thủ pháp sáng tác, về cách khai thác chủ đề, sử dụng chất liệu để tạo hiệu quả nghệ thuật cho loại phim truyện về chân dung anh hùng và nhân vật lịch sử có thật trong điện ảnh.
Làm phim về Lý Tự Trọng, đạo diễn Vũ Phạm Tư cùng biên kịch Đào Công Vũ đã phải mất khá nhiều thời gian, công sức cho việc thu thập tài liệu, nghiên cứu hoàn cảnh xã hội chính trị, địa lý Sài Gòn và cả những nơi Lý Tự Trọng đã từng có mặt trong quá trình hoạt động cách mạng để có thể có được những nét sống động cho bối cảnh, những đặc thù tiêu biểu của địa phương và tạo được tính chân thực cho phim. Dù vậy, bộ phim "Người Cộng sản trẻ tuổi" vẫn được ra đời với sự cố gắng hết mình của những người làm phim và sự đón chào nồng nhiệt của người xem trong cả nước, nhất là thế hệ trẻ.
Đạo diễn Lê Dân đã nhiều năm ấp ủ đề tài làm phim truyện về nữ Anh hùng Võ Thị Sáu. Nhưng có lẽ do nhiều khó khăn khách quan nên mãi đến giữa thập niên 90 (của thế kỷ XX) ông mới thực hiện được mong ước của mình. Bộ phim "Người con gái đất đỏ" được ra đời với sự bảo trợ, đặt hàng của Điện ảnh Công an nhân dân. Làm phim về Võ Thị Sáu lúc bấy giờ, đạo diễn Lê Dân có nhiều thuận lợi hơn các tác giả trước đây ở loại phim này: Đất nước đã hoàn toàn thống nhất, điều kiện thâm nhập thực tế, thu thập tài liệu, khai thác mọi chất liệu sống về cuộc đời và quá trình hoạt động cách mạng, cả đến những phút cuối cùng của chị Sáu tại Côn Đảo cũng được miêu tả tường tận với những nhân chứng và cứ liệu lịch sử đáng tin cậy. Có lẽ vì vậy mà hình tượng Võ Thị Sáu đã nhiều năm chỉ nằm trong sự mường tượng và lòng kính yêu, ngưỡng mộ của nhân dân, nay được hiện lên sống động, rõ ràng một người con gái đất đỏ anh hùng - đẹp hơn, anh hùng hơn và cũng "thiếu nữ" hơn! Bộ phim đã thực sự làm sống lại một biểu tượng anh hùng của thế hệ trẻ Việt Nam, một tấm gương chiến đấu hy sinh lẫm liệt trên mặt trận giữ gìn an ninh cho Tổ quốc, một thành công mới về nghệ thuật trong đời làm phim của đạo diễn Lê Dân.
Trong những phim làm về gương chiến đấu, hy sinh, đối mặt với kẻ thù, phim "Ngã ba Đồng Lộc" của đạo diễn Lưu Trọng Ninh là hoành tráng nhất, dữ dội nhất và có lẽ cũng là phim tạo được cảm xúc cho người xem mạnh mẽ nhất. Ở đây, sự đối mặt với kẻ thù không chỉ cần mưu trí, gan dạ và dám hy sinh mà còn cần cả sức bền bỉ để vật lộn với kỹ nghệ chiến tranh hiện đại của kẻ thù, sự khốc liệt của thiên nhiên và sự thử thách dai dẳng của cái khổ và cái chết. Bộ phim đã để lại niềm xót thương, cảm phục lớn lao cho người xem về sự hy sinh của những người con gái ở Ngã ba Đồng Lộc. Họ chưa hề có một lời thề trước quân kỳ như những người lính chiến, cũng chưa hề nghĩ đến một quyền lợi nào dành cho họ sau cuộc chiến trở về. Nhưng họ đã dành cả tuổi thanh xuân và mạng sống của mình cho cuộc chiến tranh vệ quốc như những người chiến binh thực thụ, gan dạ, anh hùng!
Cuộc chiến tranh nào cũng để lại cho con người hai nỗi đau sâu thẳm. Đó là sự mất mát của những người chiến sĩ giữa trận tiền và bi kịch của những người trở về sau chiến sự. Sự mất mát còn có thể được thời gian xoa dịu, xóa nhòa, nhưng những bi kịch của chiến tranh thì hầu như dai dẳng mãi, cứa mãi vào cuộc sống tình cảm, tâm hồn con người, đôi khi còn ác độc, nặng nề hơn cả cái chết.
Ở phim "Bao giờ cho đến tháng mười" của đạo diễn Đặng Nhật Minh, người phụ nữ có chồng hy sinh ngoài mặt trận đã là nỗi đau không thể gì chia sẻ được. Nhưng nỗi đau ấy lại được nhân lên nhiều lần khi phải chịu những lời thị phi của những kẻ ác miệng tà tâm và hơn nữa là phải dằn lòng "nói dối" người cha chồng đang cơn hấp hối vì sợ một cơn sốc sẽ ảnh hưởng tới sự an toàn tính mạng cho ông. Sự đau khổ hy sinh ấy của người phụ nữ có kém gì sự đổ máu của người chiến sĩ nơi chiến trường, nhưng đã mấy ai biết đến để họ được gọi là những người "chiến sĩ vô danh"?
Đôi trai gái (Lực và Thai) trong phim"Cỏ lau" của đạo diễn Vương Đức đã từng có một mối tình mặn nồng gắn bó, những tưởng sẽ mãi mãi là hạnh phúc, yêu thương. Nhưng rồi chiến tranh và… xa cách. Chàng trai ra đi, xông pha nơi trận mạc, chẳng hẹn ngày về. Người con gái đã mang trong mình dòng máu của người yêu, ở lại mòn mỏi đợi chờ. Rồi chiến tranh kết thúc, chàng trai vẫn còn may mắn hơn nhiều đồng đội khác của mình, có được ngày trở về với người cũ tình xưa. Nhưng đó lại không phải là ngày vui hội ngộ mà là những phút bắt đầu của một chuỗi dài những nỗi đau giằng xé. Vì người yêu nhầm tưởng anh hy sinh nên đã đi lấy chồng. Người lính trở về nơi tổ ấm mới của người yêu, nhận ra cha mình mà người cha không dám nhận; dắt tay, âu yếm đứa con gái, giọt máu đầu tiên của mình mà cha con cứ mơ hồ, tưởng như đang sống giữa những người xa lạ.
Ở một cảnh đau lòng hơn trong phim "Anh chỉ có mình em" của đạo diễn Đới Xuân Việt: Người mẹ đã bị chiến tranh cướp đi khả năng nhận biết bình thường của một con người để đến nỗi trở thành tâm thần, lúc tỉnh lúc mê, khi quên khi nhớ. Hết chiến tranh trở về làng, tìm được đứa con thất lạc của mình mà mẹ không nhận ra con, con lại kinh sợ, hãi hùng, xua đuổi mẹ, chỉ vì người ta bảo đó là "con điên", là "Vân dại" chứ không phải mẹ mình. Để rồi người mẹ cứ phải chập chờn đuổi theo bóng dáng một con vịt giời đỗ tít trên ngọn cây cao, với tiếng kêu nghẹn ngào thống thiết: "Con ơi! mẹ đây cơ mà. Xuống đây với mẹ, con ơi!...", chỉ thấy đôi cánh vịt giời rập rờn rồi thoắt bay vút vào khoảng không vô định của mây trắng, trời xanh… Và nỗi đau xé ruột của người mẹ mất con, cứ chới với đôi tay đuổi theo như cố níu kéo một chút hy vọng cuối cùng cho phần đời còn lại của mình. Như người xưa đã nói: "Hạnh phúc thì bao giờ cũng giống nhau, chỉ có nỗi đau và bất hạnh là mỗi người mỗi vẻ".
Chuyện xảy ra ở phim "Đời cát" của đạo diễn Nguyễn Thanh Vân đã làm xúc động đến đau xót lòng người, vì phim không nói nỗi đau để nói nỗi đau mà đã đem đến cho người xem sự mới mẻ đến ngỡ ngàng khi hiểu ra rằng: nỗi đau là cội nguồn của hạnh phúc, từ nỗi đau, con người biết vì hạnh phúc của nhau, biết tự vượt lên mình, nhận phần thiệt thòi, hy sinh về mình để có được những phẩm chất cao quý nhất của con người, mà văn chương vẫn gọi là chủ nghĩa nhân văn cao cả. Bà Thoa, người vợ ở một vùng quê nghèo, đã mấy chục năm vật lộn với cuộc sống lao động, chiến đấu, khó khăn gian khổ trăm bề, vẫn một mực thủy chung son sắt chờ chồng, đợi ngày Bắc Nam thống nhất. Nhưng rồi, ngày gặp lại, chồng bà đã có vợ, có con ở nơi tập kết. Khi được chứng kiến tận mắt sự gắn bó yêu thương của chồng với người vợ mới, bà đã nén lòng, dành trọn hạnh phúc cho hai người. Nhưng người chồng cũng không đành lòng để vợ mình hy sinh tất cả, quyết nối lại nghĩa cũ, tình xưa, dù đã sứt mẻ, muộn mằn.
Chiến tranh đã cướp đi ở họ một phần hạnh phúc nhưng càng làm sáng lên ở họ những gì cao đẹp của tình người.
Đã là nghệ sĩ chân chính, ai cũng muốn đem đến cho cuộc đời cái đẹp và niềm vui. Nhưng ở một đất nước đang có chiến tranh thì có cái đẹp và niềm vui chân chính nào lại không phải trả giá bằng sự nhọc nhằn, khổ đau, mất mát? Có lẽ vì vậy mà đề tài thương binh - liệt sĩ luôn chiếm lĩnh tâm hồn, tình cảm và sức sáng tạo của nghệ sĩ ở mọi loại hình nghệ thuật, nhất là loại hình trực diện như Điện ảnh.
7/2014
