Xung quanh việc xét tặng danh hiệu nghệ sĩ:

Phải chăng có sự lãng quên?

Thứ Năm, 24/08/2006, 09:00

Những người yêu điện ảnh Việt Nam không thể không biết tới những bộ phim như “Nguyễn Văn Trỗi”, “Biển gọi”, “Vĩ tuyến 17 ngày và đêm”, “Đi giữa mùa xuân”... những bộ phim đã mang lại những giải thưởng cao tại các LHP trong nước, quốc tế, làm rạng danh nền điện ảnh nước nhà. Đóng góp một phần quan trọng vào sự thành công của những bộ phim ấy là nhà quay phim Nguyễn Xuân Chân.

Hơn 30 năm trong nghề là bấy nhiêu năm ông dốc sức mình cho điện ảnh để bây giờ khi sắp sửa bước vào cái tuổi “thất thập cổ lai hy”, bên cạnh niềm tự hào không tránh khỏi những phút “chạnh lòng”.

Người được mệnh danh là “Urusevski của Việt Nam

Không phải ngẫu nhiên mà giới nghệ sĩ lấy tên nhà quay phim tài ba nổi tiếng người Nga với những tác phẩm điện ảnh kinh điển như: “Khi đàn sếu bay qua”, “Những bức thư không gửi”, “Người thứ 41”… làm tên gọi khi nhắc tới ông, vì ông là người sử dụng máy cầm tay điêu luyện và chắc chắn. Nhưng ông chỉ mong trong sự nghiệp điện ảnh của mình được là học trò nhỏ của người thầy tài danh ấy.

Tôi gặp ông trong căn nhà yên tĩnh tại khu đô thị Định Công. Mái tóc trắng, nụ cười phúc hậu và dáng người chắc khỏe gợi nhớ những tháng năm xông pha cùng đoàn làm phim đi khắp mọi nẻo đường Tổ quốc mang tới cho khán giả những thước phim đẹp và chân thực. Khi nói về những bộ phim, ông rôm rả, sôi nổi hẳn lên như được trở lại ký ức những tháng ngày làm việc hăng say, thuở sự sống và cái chết cận kề nhưng tình yêu nghề phơi phới và ăm ắp trong tim.

Trong lịch sử điện ảnh Việt Nam, Nguyễn Xuân Chân là một trong số hiếm hoi những người vừa chân ướt chân ráo tốt nghiệp Khoa Quay phim tại Liên Xô (năm 1964) được giao ngay vai trò quay phim chính trong phim “Bình minh trên rẻo cao” (ĐD Trần Đắc). Những thước phim với nhiều góc độ ấn tượng đã góp phần làm nên thành công của bộ phim này. Vừa bước chân vào nghề, ông đã phải quay ngay những cảnh khó như cảnh đoàn người dân tộc Dao vào rừng Ma. Để có thể diễn tả hết vẻ hoang vắng, rùng rợn của khu rừng và cảm giác nhỏ bé, sợ hãi của con người, bắt buộc các nhà làm phim phải có cảnh quay đặc tả, sau đó rút ra để thấy cả khu rừng suối mênh mông. Trong khi thời kỳ đó, cần trục và đường ray đều hết sức thô sơ, quay phim Xuân Chân đã nghĩ ra cách buộc 2 sợi dây cáp dài 50m song song với nhau. Trên đó đặt máy quay phim kéo từ thấp lên cao thay cho cần trục. Sau những ngày “nín thở” chờ đến khi xem bản nháp, cả đoàn đã reo lên sung sướng vì sáng kiến của nhà quay phim Xuân Chân đã đạt hiệu quả quá sức tưởng tượng.

Có lẽ bộ phim đánh dấu sự thành công trong cuộc đời làm nghệ thuật của ông, cũng là bộ phim tiêu biểu cho nền điện ảnh Việt Nam, chính là “Vĩ tuyến 17 ngày và đêm”. Đây cũng là một bộ phim truyện nhựa đầu tiên của Việt Nam làm 2 tập và thực hiện ròng rã suốt 2 năm. Với những người tham gia làm phim, hồi ức về “Vỹ tuyến 17 ngày và đêm” chính là sự hiểm nguy đến nghẹt thở. Cảnh quay chị Dịu bế con trên bãi cát đã được thực hiện tại cồn cát Cửa Tùng, Vĩnh Mốc. Để tránh rủi ro, đoàn làm phim đã tinh giản đến mức chỉ có 4 người không thể thiếu: Biên kịch Hoàng Tích Chỉ, đạo diễn Hải Ninh, quay phim Xuân Chân và diễn viên chính Trà Giang. Khi các nghệ sĩ quay phim ở bên này thì bên kia Dốc Miếu, địch vẫn cầm canh bắn pháo sang. Chính ông cũng không thể lý giải nổi tại sao thuở ấy không chỉ những người lính mà cả nghệ sĩ cũng coi thường cái chết đến thế. Có lẽ, ngoài khí thế cứu nước của cả một thế hệ, thì dường như trong tim người nghệ sĩ còn bùng cháy một ngọn lửa đam mê.

Nguyễn Xuân Chân không chỉ nổi tiếng trong vai trò là người quay phim truyện nhựa mà ông còn là đạo diễn, quay phim chính ở nhiều bộ phim tài liệu như “Đi giữa mùa xuân”, “Bài ca anh giải phóng”, “Quảng Trị một ngày xuân”… Đúng như giới điện ảnh nhận xét: quay phim truyện vất vả một thì quay phim tài liệu vất vả, nguy hiểm gấp 10 lần. Nguyễn Xuân Chân gắn bó với chiếc máy quay phim khi cả nước còn đang trong giai đoạn chiến tranh chống Mỹ vô cùng ác liệt. Ông đã cùng đoàn làm phim đến với những chảo lửa của cuộc chiến mới mong muốn quay những thước phim chân thực. Ông vẫn nhớ về bộ phim “Đi giữa mùa xuân” (năm 1974) như một kỷ niệm không thể phai mờ. Đoàn phim quay tại chiến trường Quảng Trị khốc liệt bên cạnh dòng sông Thạch Hãn. Cho máy quay vào balô, ông và một người đồng nghiệp lên sát chiến tuyến. Một lỗ nhỏ được khoét chỉ đủ vừa ống kính máy quay. Và cách đó 10m, rất nhiều lính ngụy đang chĩa súng về phía anh em mình. Chỉ cần một tiếng động nhỏ, quân ngụy phát hiện có máy quay thì không hiểu chuyện gì sẽ xảy ra! Để át tiếng máy quay, trước đó 10 phút, anh em bộ đội bên mình đã bố trí  lấy xoong nồi ra gõ và gõ liên tục cho tới khi quay xong. Tay giữ máy quay mà tim đập thình thịch nhưng vẫn cố giữ cho khuôn hình không bị rung. Sau này, nhiều người khi xem phim “Đi giữa mùa xuân” rất ấn tượng với hình ảnh lá cờ của quân giải phóng tung bay phần phật trong gió bên cạnh là tên lính ngụy đang đứng gác như dự báo một chiến thắng huy hoàng tất yếu sắp liền kề. Nhưng ít ai biết rằng để có những hình ảnh ấy, có thể tác giả sẽ phải đổi bằng tính mạng của mình.--PageBreak--

“Bài ca anh giải phóng” là một bản hùng ca về anh bộ đội Cụ Hồ bằng hình ảnh mà ông là người gửi gắm tình cảm của mình vào từng thước phim, góc máy. Ông kể, lần quay đó là một buổi sáng sương mù, vừa lúc bấm máy cũng là lúc phía xa xa trời bất chợt đổ mưa giông. Trên nền sự giao thoa của 2 cảnh sắc đó, hình ảnh đoàn quân khoác áo mưa tung bay như những chiến binh khoác áo bào ra trận đầy hào khí và phảng phất phong vị của những câu thơ trận mạc.

Khi làm phim “Tấm Cám” là bộ phim thu tiếng đồng bộ. Phim trường đóng đô ngay tại xưởng phim truyện Việt Nam ở số 4 Thụy Khuê, nơi có đường tàu điện đi qua nên chỉ có thể quay từ 21 giờ tới 2 - 3 giờ. Theo tiêu chuẩn của Liên Xô trước đây, mỗi đêm chỉ quay 25 m, và như thế, để quay xong bộ phim mất gần một năm trời. Cũng là từng ấy thời gian, ông phải ở cơ quan, mỗi đêm chỉ được ngủ từ 2- 3 tiếng. Vì phải đứng quá lâu một chỗ, đến khi phim đóng máy cũng là lúc hai chân ông bị phù nề. Rất lâu sau đó, chân ông mới có thể đi lại được bình thường.

Nghệ sĩ Xuân Chân là người có duyên với những cái “đầu tiên”. Rất nhiều tác phẩm của ông gắn liền với sự thử nghiệm của điện ảnh Việt Nam: “Đi giữa mùa xuân” -  phim màu màn ảnh rộng đầu tiên; “Tấm Cám” - phim sân khấu đầu tiên quay trên phim nhựa màu và thu âm trực tiếp; “Những người trên mặt sông” - phim truyện màn ảnh rộng đầu tiên; “Tọa độ chết” - phim đầu tiên hợp tác với điện ảnh Xôviết; “Những đứa con lạc loài” - phim video đầu tiên…. Ông luôn vượt lên những khó khăn và thách thức của sự thử nghiệm ấy.

Những thiệt thòi ít người biết tới

Thật khó có thể hình dung ngay từ khi rời Trường Điện ảnh Liên Xô, Nguyễn Xuân Chân gần như năm nào cũng làm phim và thu được rất nhiều thành công. Phim “Nguyễn Văn Trỗi” được giải Bông sen Vàng LHP Việt Nam lần thứ nhất (1970), nhận bằng khen và giải thưởng của Tổ chức Thanh niên Liên Xô tại LHP quốc tế Mátxcơva (1967). “Biển gọi”: Bông sen bạc LHP Việt Nam lần thứ nhất (1970), “Vỹ tuyến 17 ngày và đêm”, giải thưởng của Hội đồng hòa bình thế giới tại LHP quốc tế Mátxcơva (1973), “Đi giữa mùa xuân”, phim được Bằng khen của LHP Quốc tế Mátxcơva…

Ngay cả khi làm công tác quản lý tại Công ty Video Việt Nam, ông cũng tham gia chỉ đạo nghệ thuật, sáng tác kịch bản, biên tập hàng chục bộ phim như “Đời hát rong”, “Đêm giông”, “Khát vọng bi thương”… Ông cùng với 3 nghệ sĩ quay phim khác là Hồng Sến, Nguyễn Đăng Bẩy, Nguyễn Khánh Dư là 4 tay quay chắc chắn của xí nghiệp phim truyện thời đó.

Thế nhưng, lần đầu tiên Nhà nước phong tặng danh hiệu cho các nghệ sĩ, ông không được xét duyệt. Ông hỏi người đạo diễn đã từng lăn lộn cùng ông trong sáng tác, nay trong Hội đồng xét duyệt Quốc gia thì nhận được câu trả lời: “Nếu xét những cống hiến trong lĩnh vực quay phim thì ông được phong ngay rồi. Nhưng bây giờ ông chuyển sang đạo diễn thì còn phải xếp hàng!”. Sự vô lý nằm ở chỗ sự đóng góp của ông cả trong lĩnh vực quay phim và đạo diễn lẽ ra công lao phải được nhân lên thì đây lại trở thành phép chia như thế! Sau 42 năm công tác trong ngành điện ảnh, 30 năm vắt sức mình cho nghệ thuật, với nhiều giải thưởng trong nước và quốc tế, đến nay ông vẫn chỉ là NSƯT (phong năm 1993).

Mà chuyện ông được NSƯT cũng không hề suôn sẻ. Năm đó, ông được đề nghị xét tặng NSND. Chỉ vì lý do “không đủ phiếu quy định”, ông bị đánh trượt và trượt luôn cả danh hiệu NSƯT. Vụ Tổ chức cán bộ thấy vô lý, cử cán bộ xuống xác minh, đề nghị ông viết đơn lên thẳng Bộ trưởng Bộ Văn hóa - Thông tin Trần Hoàn và ông đã được xét nhưng chỉ dừng ở mức NSƯT. Năm 2005 cũng vậy, Hội Điện ảnh gửi hồ sơ và yêu cầu viết bản tóm tắt thành tích để xét. Hội đồng chuyên ngành đã đề nghị phong NSND nhưng đến Hội đồng Quốc gia lại bị “ách lại” vì “vướng” quy chế: “Trong thời gian về hưu vẫn phải tham gia sáng tác”. Thật khôi hài! Nhà nước cho nghệ sĩ nghỉ hưu nghĩa là họ phải được quyền nghỉ ngơi sau bao năm cống hiến? Thiết nghĩ, hồ sơ 2005 là để khắc phục những sơ suất của Hội đồng xét duyệt lần trước chứ không phải bắt những người đã về hưu phải làm thêm để góp vào thành tích cũ. Ai cũng biết, tài năng, tinh hoa của người nghệ sĩ chỉ phát tiết vào một thời và họ xứng đáng được tôn vinh những đóng góp ấy. Đặt giả thiết nếu như ông Xuân Chân không biết dừng lại, tiếp tục làm việc khi sức lực và sự thăng hoa đã qua thì biết đâu chỉ lại đóng góp những tác phẩm dở. Như thế, danh hiệu sẽ càng suy giảm lòng tin với mọi người. Ngay như trong chương trình “Bài hát Việt”, rất ít khi có sự tham gia của các nhạc sĩ thành danh vì họ biết tác phẩm nghệ thuật phụ thuộc rất nhiều vào cảm xúc và đó là sân chơi của các nhạc sĩ trẻ đang dần khẳng định mình. Người nghệ sĩ chân chính là người biết mình là ai và biết dừng đúng lúc để không mang đến cho công chúng những tác phẩm kém chất lượng.

Sau bao năm, ông vẫn lặng lẽ với những thiệt thòi của riêng mình và lấy thú vui tuổi già: chăm sóc gia đình, thể dục thể thao, câu cá làm niềm an ủi, bởi ông hiểu sự thiệt thòi của mình có cả những tị hiềm, việc “không công nhận nhau” của một vài nghệ sĩ. Ông ngậm ngùi: “Tôi có cảm giác mình như một trường hợp bị lãng quên!”. Người viết bài này chợt nghĩ: Danh hiệu là sự ghi nhận, tôn vinh những đóng góp của các nghệ sĩ, vì vậy cần phải hết sức công bằng và kịp thời để động viên, khích lệ và cũng là cách tôn trọng lao động nghệ thuật nhọc nhằn

Thảo Duyên
.
.
.