Ông đại tá đặc công thích... “mần” văn nghệ
Nghe tin vui, Đại tá Lê Bá Ước cười khà sảng khoái và ra lệnh cho chúng tôi phải lưu lại nhà ông để uống rượu và nghe đọc thơ do chính ông “mần”.
Ký ức một thời
Sinh năm 1931, quê Gò Quao, Rạch Giá, ông đi kháng chiến từ năm 1945, tham gia đánh Pháp, tập kết ra Bắc, vượt Trường Sơn về Nam, làm Chính ủy kiêm Trung đoàn trưởng Trung đoàn 10 đặc công Rừng Sác thời chống Mỹ. Từ năm 1974 đến 1975, ông làm Chính ủy Sư đoàn 2, tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh. Từ năm 1976, ông làm Phó chỉ huy trưởng Tỉnh đội Đồng Nai. Năm 1994, ông nghỉ hưu và từ đó là hội viên Hội VH-NT Đồng Nai.
Nếu tóm tắt tiểu sử của Đại tá Lê Bá Ước thì chỉ có vậy. Nhưng cuộc đời ông là cả một cuốn sách mở. Bằng chứng là ông đã viết cuốn hồi ký Một thời Rừng Sác - cuốn sách đang chuẩn bị tái bản lần thứ năm. Ông đang viết tiếp cuốn thứ hai của thiên hồi ký ấy. Và ông cũng đang chuẩn bị cho in tập thơ Trái tim người lính.
Công việc viết lách, ghi chép trong nhiều năm qua, với ông là một niềm vui lớn, mà nếu như không có nó, rất có thể ông đã khô héo vì sự ám ảnh của quá khứ. Hơn 800 đồng đội hy sinh, 500 người mất tích, nhưng cho đến nay chỉ mới tìm được vài chục hài cốt. Hình ảnh một dòng sông đỏ, dập sóng nhiều lần hiện ra trong giấc mơ, phục hiện mà xóa nhòa làm cho ông nghẹn thở, rơi nước mắt...
Nói đến đặc công Rừng Sác là chúng ta nhớ ngay đến những trận đánh ác chiến, gây tiếng vang như: phá kho bom thành Tuy Hạ, thiêu hủy tổng kho xăng Nhà Bè, pháo kích Dinh Độc Lập, tòa Đại sứ Hoa Kỳ và đánh chìm hàng trăm tàu giặc trên sông Lòng Tàu... Nhớ lại những chiến công hiển hách đó, Đại tá Lê Bá Ước, người trung đoàn trưởng năm nào thấy rất tự hào. Nhưng ông cũng cảm thấy trên vai mình còn một gánh nặng trách nhiệm và cao hơn trách nhiệm, đó là tình đồng đội, tình người.
Năm 1997, sau khi nghỉ hưu, đáng lẽ phải hưởng niềm vui an nhàn của tuổi già thì ông đại tá lại “bức xúc” về việc xây dựng tượng đặc công Rừng Sác. Thế là ông lại xốc balô đi... xin tài trợ. Xin được 900 triệu đồng, chưa “thấm tháp” gì nhưng cũng vững bụng để ông cùng họa sĩ Sỹ Nguyên, nhà điêu khắc Trần Thanh Thanh làm phác thảo tượng đài. Sau đó tượng đài đặc công Rừng Sác và khu đền thờ liệt sĩ huyện Nhơn Trạch được tỉnh Đồng Nai xây dựng với tổng kinh phí 6 tỉ đồng. Cũng chính Đại tá Lê Bá Ước là người làm đề án và trực tiếp làm khu bảo tồn Rừng Sác vào tháng 6/2002 do Tổng công ty Du lịch VN đầu tư kinh phí. Bây giờ những ai đến tham quan Rừng Sác - Cần Giờ hẳn phải ngạc nhiên, xúc động trước sự tái hiện những di tích lịch sử, những khoảnh khắc một thời đạn bom... --PageBreak--
Tình của một đời
Trên một mảnh đất rộng cả ngàn mét vuông, “đại gia đình” của Đại tá Lê Bá Ước sống quần tụ ở đó. Chín người con, nói vui như lời ông đại tá là: "Ba người con anh, ba người con em và ba người con của chúng ta”. Sự thật đó từng một thời làm cho ông đau buồn đến nghẹn thở. Người vợ đầu của đại tá là y sĩ Nguyễn Kim Mến đã hy sinh trong một trận bom địch ném vào trạm xá trung đoàn năm 1971, để lại cho ông ba người con. Người vợ thứ hai của ông là bà Thân Thị Tuyết Vân, vốn là vợ của cán bộ đại đội Phạm Như Tiếp, hy sinh năm 1972. Trước đó bà Tuyết Vân đã có với ông Tiếp ba người con. Sau ngày giải phóng, ông Ước và bà Vân tác hợp với nhau và có thêm ba người con nữa...
Nói thì ngắn gọn vậy, nhưng trong chiến tranh, người mang nỗi đau mất vợ, người chịu nỗi đau mất chồng, họ phải vượt qua những nỗi đau riêng để tìm một nguồn chia sẻ, một tình yêu mới. Rồi sau giải phóng họ phải bươn chải, làm việc cật lực để nuôi dạy một đàn con nên người. Bây giờ, mỗi khi hồi tưởng lại chuyện cũ, ông đại tá chợt thấy cay sống mũi: “Cực lắm. Bà vợ thương binh 61% của tôi hằng ngày phải đạp xe đạp đến xí nghiệp may ở Khu công nghiệp Biên Hòa nhận hàng may gia công với tay nghề vốn một thời là chiến sĩ quân trang Rừng Sác. Hết may gia công thì xoay sang làm hộp giấy cho các xí nghiệp bao bì, hợp tác xay nghiền muối hột, rồi nuôi heo nái...”.
Rồi ông đại tá nhấp hớp rượu, cười khà: “Hồi đó hay nói giỡn, nếu muốn nuôi được chín đứa hai chân thì trong nhà phải có... một bầy bốn chân”. Làm như thế mà sống vẫn khổ vì con quá đông, phải củ khoai, củ sắn qua ngày. Nhưng thật kỳ lạ, những người con của họ vẫn sống rất khỏe và rất trong sạch cho đến tận bây giờ. Hiện nay, chín người con của ông thì tám người đã lập gia đình, làm việc, sống lương thiện.
Ông vẫn tự hào rằng gia đình ba thế hệ thì có chín đảng viên, người làm bác sĩ, người làm cảnh sát, người làm thợ điện, người làm kinh doanh... Tất cả đều nề nếp và hiếu thuận trong một đại gia đình. Còn riêng ông đại tá thì luôn sống giản dị, thanh bạch như trong thơ của ông: Sáng gói mì tôm, một ấm trà/ Ngày cơm hai bữa, cá, dưa, cà/ Nếu mời bạn đến thêm chai đế/ Cuộc sống thênh thang với tuổi già...
Những vần thơ chợt đến
Có rất nhiều người biết đến Đại tá Lê Bá Ước với những chiến công hiển hách của đặc công Rừng Sác, biết đến đền thờ Nhơn Trạch và khu bảo tồn Rừng Sác - Cần Giờ với sự đóng góp rất lớn của ông. Cũng có người khoái chuyện tình thật “éo le” thời trận mạc, tuổi trẻ của ông. Rồi mai mốt đây người ta còn có dịp “trầm trồ” về ông khi bộ phim Một thời Rừng Sác được hoàn thành. Nhưng, có lẽ còn ít người biết cái khoản “mần” thơ của ông.
Với Đại tá Lê Bá Ước thì giờ đây ông chỉ còn hai điều tâm niệm cần làm. Thứ nhất, bằng mọi cách tìm thêm hài cốt đồng đội bị mất tích. Thứ hai, ghi lại những cảm xúc, suy nghĩ về cuộc đời bằng thơ. Cả hai công việc đều khó khăn, vất vả, nhưng ông nhất quyết phải làm vì quỹ thời gian đối với ông đang cạn dần. Không triết lý, quan trọng hóa vấn đề, nhưng qua tâm sự của Đại tá Lê Bá Ước, chúng tôi nhận ra sự linh diệu của thơ ca, cũng như nỗi đam mê mà ông “trót” dành cho chữ nghĩa. Ngày trước, khi viết văn, ông thường nhờ nhà văn Nguyễn Đức Thọ “kèm”. Khi Nguyễn Đức Thọ mất vì căn bệnh ung thư quái ác, ông suy sụp như một cây đước bị sụm rễ. Thời gian rồi cũng nguôi ngoai dần. Bây giờ, khi làm thơ thì ông hay nhờ nhà thơ trẻ Trần Ngọc Tuấn “cho ý kiến”.
Thật ra, thơ của ông phần lớn cũng như thơ tâm tình của các cụ ở câu lạc bộ người cao tuổi, hay thơ thế sự của mấy cụ về hưu. Nhưng điều đáng trân trọng là Đại tá Lê Bá Ước là người biết lượng sức mình, hiểu mình là ai. Ông làm thơ không phải để thành nhà thơ mà là để tâm sự với cuộc đời, gần gũi và tha thiết hơn là tâm sự với những đồng đội giờ này không biết đang nằm ở nhánh sông nào: Xương trắng nở hoa tận đáy sông/ Mênh mang Rừng Sác nhuốm màu hồng/ Năm trăm hài cốt đâu tìm thấy/ Rừng đước bạt ngàn ngập chiến công.
Dường như thơ của Đại tá Lê Bá Ước thì phải do chính ông đọc nghe mới hay, mới “đã”. Vì ở con người ông, giọng nói của ông bao giờ cũng tỏa ra một “chất lính” đặc sệt, ấn tượng. Ông bảo: “Người lính có một tình cảm bất tử, bất tận, đó là tình đồng đội thân thương, gắn bó từ hạt muối cắn đôi, nắm cơm bẻ nửa. Khi chiến đấu bị thương cõng nhau vượt sông, bọc nilông chôn cất lúc tử trận, cùng lao vào chết để tìm sự sống... hễ xa nhau dù hàng chục năm, khi gặp lại là họ ôm chầm, vỗ vai nhau: “Trời ơi, mày còn sống hả?”. Thật là... đã quá chừng!”.
Với chữ nghĩa, ông đại tá từng than trời: “Viết lách khó tổ cha. Với nghề viết tao chỉ là thằng lính binh nhì”. Vậy mà ông đã viết được một cuốn hồi ký dày 300 trang, lại đang “gom” thành một tập thơ để in. Với văn xuôi thì ông viết như... “bổ củi”. Nhưng với thơ thì dường như ông bớt “khổ sở” hơn vì những vần thơ như chợt đến một cách êm ái, nhẹ nhàng. Có khi chúng tìm đến trong những giấc mơ của ông: Lạnh lạnh sương khuya phủ xuống đầu/ Phải chăng sóng gió dập vùi sâu/ Hay là bom đạn từng cày xới/ Người lính già nay bạc trắng đầu (Vì sao bạc đầu?).
Thật là kỳ diệu, một người từng một thời vào sinh ra tử, từng “thét ra lửa”, từng quen sống bằng mệnh lệnh, kỷ luật... thế mà khi bước vào những năm tháng cuối cuộc đời bỗng... thèm thơ. Không chỉ thích sáng tác thơ mà ông đại tá còn mê nghe đọc thơ, thích nói chuyện thơ với những người làm thơ chuyên nghiệp để “học hỏi”. Cuối cùng xin được nói một chuyện ngoài thơ, đó là lời nguyện của Đại tá Lê Bá Ước, khi chết đi thi thể sẽ được thiêu và mang về rắc xuống dòng sông chảy giữa mênh mông Rừng Sác: Chen lấn làm gì chốn nghĩa trang/ Trở về Rừng Sác sống thênh thang/ Tro tàn hòa máu bao đồng đội/ Sừng sững hiên ngang đước bạt ngàn (Di chúc)
