Doanh nghiệp Việt vẫn nhỏ bé và “chậm lớn”
PGS, TS Trần Đình Thiên đề nghị cần hạn chế phân bổ nguồn lực theo cơ chế “xin - cho”, “hành chính”; ưu tiên thúc đẩy phát triển các thị trường, đặc biệt là các thị trường “đầu vào”, tạo cơ sở để việc phân phối các nguồn lực diễn ra theo đúng nguyên tắc thị trường (cạnh tranh)...
Sáng 19/9, tại Diễn đàn Kinh tế - Xã hội Việt Nam, sau phiên khai mạc, các đại biểu đã tập trung thảo luận Chuyên đề 1 về “Tăng cường nội lực, khơi thông nguồn lực, hỗ trợ doanh nghiệp vượt khó”. Ủy viên Trung ương Đảng, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Vũ Hồng Thanh và Phó Giám đốc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh Lê Văn Lợi điều hành phiên thảo luận.
Là người phát biểu đầu tiên, PGS. TS. Trần Đình Thiên, Nguyên Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam tập trung vào chủ đề “Khơi thông nguồn lực, phát huy nội lực, đưa nền kinh tế sớm phục hồi và bứt phá phát triển" cho biết, Việt Nam – cùng cả thế giới đang trong một bước chuyển lịch sử - thời đại, với sự thay đổi: chuyển từ không gian vật lý chuyển sang không gian “số”; từ thời đại “lao động chân tay – kinh nghiệm” sang thời đại “lao động trí tuệ – sáng tạo”; cấu trúc phát triển chuyển từ thời đại kinh tế vật thể – thủ công chuyển sang kinh tế số, công nghệ cao và giới hạn địa phương mở ra toàn cầu.
PGS. TS. Trần Đình Thiên cho rằng, doanh nghiệp Việt Nam giỏi chống chịu, sống dai nhưng chậm lớn, khó trưởng thành. “Thực tế, dù có những khó khăn khi gánh nặng chi phí, trình độ thấp và thực lực yếu, ảnh hưởng của đại dịch COVID - 19, từ các cuộc khủng hoảng kinh tế, khủng hoảng tài chính thế giới… thì các doanh nghiệp nước ta vẫn tồn tại - một cách bền bỉ và mạnh mẽ, đóng góp ngày càng lớn vào thành tựu phát triển của đất nước” - PGS. TS Trần Đình Thiên nhấn mạnh và cho rằng, với năng lực “chống chịu” và “trụ hạng” hiếm có như vậy, nhưng thực tế cho thấy, đa số doanh nghiệp Việt lại vẫn là những thực thể nhỏ bé, “chậm lớn”, “khó lớn”, “ngại lớn”, khi “li ti hóa” trở thành xu hướng xuyên suốt quá trình phát triển của doanh nghiệp, mặc dù đây là một trong những thành tố quan trọng nhất cấu thành “nội lực”, quyết định sự phát triển nền kinh tế Việt Nam.
Để bảo đảm lưu thông các nguồn lực trong nền kinh tế thị trường, PGS, TS Trần Đình Thiên đề nghị cần hạn chế phân bổ nguồn lực theo cơ chế “xin - cho”, “hành chính”; ưu tiên thúc đẩy phát triển các thị trường, đặc biệt là các thị trường “đầu vào”, tạo cơ sở để việc phân phối các nguồn lực diễn ra theo đúng nguyên tắc thị trường (cạnh tranh); bảo đảm “Tam thông” trong quá trình vận hành hệ thống (thông suốt về hạ tầng; thông thoáng về cơ chế; thông minh trong vận hành); thúc đẩy phát triển đồng bộ các thị trường, đặc biệt là thị trường đất đai đồng nhịp các giải pháp kinh tế, hành chính, pháp luật; tiếp tục đẩy mạnh giải ngân đầu tư công…
Với đề xuất “Tháo gỡ các rào cản, khó khăn cho doanh nghiệp Việt Nam”, Phó Tổng Thư ký, Trưởng Ban Pháp chế, Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam VCCI Đậu Anh Tuấn đã chỉ rõ 6 rào cản, khó khăn lớn của các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay gồm: chất lượng cơ sở hạ tầng chưa theo kịp nhu cầu phát triển kinh tế; việc tiếp cận các nguồn lực sản xuất kinh doanh cơ bản chưa thực sự thuận lợi; chi phí sản xuất kinh doanh cao làm giảm sức cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam; chất lượng các quy định pháp luật chưa đảm bảo, lạm dụng ban hành Thông tư, ban hành Quy chuẩn kỹ thuật; thiếu cơ chế hỗ trợ hiệu quả; có sự bất bình đẳng trong kinh doanh giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp xuyên biên giới; đồng thời đề nghị cần cải thiện các rào cản trên để tạo điều kiện cho doanh nghiệp Việt Nam phát triển.
Đại diện thường trú Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) tại Việt Nam Jochen Schmittmann cho biết có nhiều chính sách vĩ mô phù hợp đảm bảo hệ thống tài chính, trong đó ngân hàng nhà nước phải hết sức cẩn trọng về các chính sách tài chính, về các vấn đề lãi suất, thị trường liên ngân hàng… Ông Jochen Schmittmann cho biết, cần tăng cường thực thi chính sách, giải quyết điểm nghẽn đầu tư công, đặc biệt sử dụng đất. Bên cạnh đó, cần tìm lại niềm tin của nhà đầu tư cả nước ngoài lẫn trong nước vào Việt Nam; tăng cường các cơ chế tái cơ chế cơ cấu doanh nghiệp; xây dựng khuôn khổ thanh lý doanh nghiệp; các biện pháp giải quyết nợ mà không cần qua Tòa án, có các biện pháp thanh lý nợ hợp lý.
Điều quan trọng tiếp theo là phải có pháp luật ổn định, nhất quán liên quan đến đầu tư; để bảm đảm niềm tin cho các doanh nghiệp thì cần đầu tư vào điện, cơ sở hạ tầng, giảm thuế, chi phí doanh nghiệp… Ngoài ra, cần thêm các nỗ lực để tăng cường khả năng quản trị, ứng dụng cơ sở dữ liệu quốc gia, đảm bảo sự chắc chắn của pháp luật.
Nói về điều hành chính sách tiền tệ từ nay đến hết năm và đầu năm 2024 để tạo điều kiện cho sản xuất, kinh doanh phát triển, Phó Thống đốc Thường trực Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Việt Nam Đào Minh Tú cho rằng, điều hành chính sách tiền tệ thời gian qua rất linh hoạt, thận trọng, chắc chắn, thực hiện các mục tiêu của Quốc hội và Chính phủ, đặc biệt là phối hợp với các chính sách vĩ mô khác để đảm bảo sự cạnh tranh cũng như đảm bảo sự phấn đấu của các Ngân hàng Thương mại (NHTM) và các doanh nghiệp trong nền kinh tế và cho biết, đã 4 lần giảm lãi suất điều hành NHNN, đồng thời tạo dư địa, tạo thanh khoản cho thị trường, cho nền kinh tế, đặc biệt thanh khoản cho các tổ chức tín dụng để tạo dư địa cho các NHTM có giá vốn rẻ để có thể cho vay lãi suất thấp.
Phó Thống đốc NHNN Đào Minh Tú nhấn mạnh, hạn mức tăng trưởng tín dụng chính là công cụ để điều tiết nền kinh tế và điều tiết chung việc tăng trưởng tín dụng để kiểm soát lạm phát. Năm 2023, NHNN đã nới rất rộng, tạo thông điệp rằng tín dụng sẵn sàng hỗ trợ và mở rộng cho các doanh nghiệp. Trong lĩnh vực tín dụng, dưới sự chỉ đạo của Quốc hội, Chính phủ, NHNN cũng đưa ra nhiều giải pháp, trong đó hạ lãi suất của NHTM; giãn/hoãn cho những khoản nợ, khoản lãi đến hạn mà chưa trả được thì được kéo dài ít nhất 1 năm; cắt bỏ chi phí, rào cản, thủ tục, phí, điều kiện tiếp cận của NHTM.