Doanh nghiệp nhỏ, siêu nhỏ hưởng lợi khi sửa đổi Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp

Thứ Hai, 12/08/2024, 06:42

Dự thảo Luật Thuế Thu nhập doanh nghiệp - TNDN (sửa đổi) đang được Bộ Tài chính lấy ý kiến để kịp thời trình Quốc hội cho ý kiến lần đầu tại Kỳ họp vào tháng 10 tới đây. Dù vẫn còn một số ý kiến băn khoăn, song có nhiều nội dung sửa đổi được đánh giá là có lợi ích trực tiếp cho DN, đặc biệt là DN nhỏ và siêu nhỏ.

Bộ Tài chính cho biết việc sửa đổi Luật Thuế TNDN nhằm khắc phục các bất cập, chồng chéo; đảm bảo ổn định nguồn thu cho ngân sách Nhà nước, góp phần tái cơ cấu lại thu ngân sách Nhà nước theo hướng bền vững. Vì thế, tại Dự thảo, Bộ Tài chính đã bổ sung nhiều nhóm vấn đề quan trọng về chính sách thuế TNDN, bao gồm: các quy định về chống xói mòn cơ sở thuế toàn cầu; bổ sung gần 30 loại “thu nhập khác” được tính là thu nhập chịu thuế TNDN; bổ sung thêm các khoản thu nhập của DN nước ngoài phải chịu thuế khi kinh doanh tại Việt Nam; bổ sung một số khoản thu nhập được miễn thuế và các khoản chi được khấu trừ khi tính thuế TNDN.

Đáng chú ý, Dự thảo Luật (sửa đổi) cũng đã bổ sung các quy định về thuế suất thuế TNDN đối với DN nhỏ và siêu nhỏ. Theo đó, áp dụng thuế suất 15% cho DN có tổng doanh thu không quá 3 tỷ đồng/năm; thuế suất 17% cho DN có tổng doanh thu từ trên 3 tỷ đến dưới 50 tỷ đồng/năm.

Ngoài ra, những ngành nghề thuộc các nhóm lĩnh vực ưu tiên phát triển, như: ứng dụng công nghệ cao; sản xuất sản phẩm nội dung thông tin số; cung cấp dịch vụ công nghệ thông tin quan trọng; đầu tư sản xuất năng lượng tái tạo; công nghệ sinh học; sản xuất vật liệu xây dựng nhẹ, sản xuất, lắp ráp ôtô... đều được xếp vào nhóm được hưởng ưu đãi thuế.

Doanh nghiệp nhỏ, siêu nhỏ hưởng lợi khi sửa đổi Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp -0
Doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ sẽ không phải chịu thuế “cào bằng” với các doanh nghiệp khác.

Lý giải về đề xuất ưu đãi thuế cho DN siêu nhỏ và nhỏ, không cào bằng 20% như các loại hình DN khác, Bộ Tài chính cho biết, trong tổng số 900.000 DN đang hoạt động, số DN siêu nhỏ và nhỏ chiếm gần 94%. Đây là đối tượng cần có các chính sách hỗ trợ, khuyến khích phát triển và nuôi dưỡng nguồn thu lâu dài cho ngân sách.

Thực tế thời gian qua, có những thời điểm khó khăn, DN quy mô nhỏ cũng được giảm thuế TNDN hoặc áp thuế suất thấp hơn so với DN khác. Mặt khác, Luật Hỗ trợ DN nhỏ và vừa quy định: DN nhỏ và vừa được áp dụng có thời hạn mức thuế suất thuế TNDN thấp hơn mức thuế suất thông thường (Điều 10). Qua tham khảo kinh nghiệm quốc tế, Bộ Tài chính nhận thấy DN có quy mô nhỏ vẫn luôn là mục tiêu trọng tâm của các chính sách phát triển kinh tế ở nhiều quốc gia. Chính sách hỗ trợ về thuế là công cụ thường được các nước sử dụng theo hướng quy định mức thuế suất ưu đãi dành cho các DN có quy mô nhỏ, có thể là mức thuế suất cố định hoặc mức thuế suất lũy tiến theo quy mô thu nhập.

"Phần lớn các nước áp dụng mức thuế suất thuế TNDN thấp hơn mức thuế suất phổ thông cho các DN có quy mô nhỏ, có phân biệt theo quy mô doanh thu, thu nhập chịu thuế”, Bộ Tài chính thông tin.

Theo đánh giá của Bộ Tài chính, việc giảm thuế suất thuế TNDN với DN nhỏ và siêu nhỏ có thể sẽ khiến ngân sách hụt thu khoảng 12.600 tỷ đồng mỗi năm. Tuy nhiên, với hơn 94% số DN tại Việt Nam hiện nay là nhỏ và siêu nhỏ, thì tác động tích cực của chính sách thuế này là khá lớn đối với nền kinh tế. Trên thực tế, các chuyên gia và giới DN về cơ bản là đánh giá cao những sửa đổi trong Dự thảo Luật, vì thuế TNDN là loại thuế trực thu, điều tiết trực tiếp vào thu nhập chịu thuế và là loại thuế đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh của DN. Bởi vậy, một chính sách thuế hợp lý sẽ mang lại lợi ích cho cả DN và ngân sách Nhà nước.

Tuy nhiên, bên cạnh những điểm nổi bật mang lại lợi ích cho DN, vẫn còn những điểm đáng băn khoăn. Ví dụ khi góp ý vào Dự thảo Luật, Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) cho rằng trước mắt có một số quy định liên quan đến xác định thu nhập chịu thuế, Bộ Tài chính cần cụ thể hóa để tạo điều kiện cho ngành thuế và các DN thực thi khi Luật mới được thông qua.

Chẳng hạn, hiện nay dự thảo Luật đã bổ sung quy định về chi phí không được trừ. Tuy nhiên, trên thực tế vì lý do khách quan, nhiều DN đã đầu tư dự án nhưng không có doanh thu từ dự án đó. Nếu căn cứ vào quy định “khoản chi không tương ứng với doanh thu tính thuế” để loại bỏ chi phí này thì sẽ thiệt thòi cho DN, khiến họ ngại đầu tư vào các dự án mạo hiểm, các mô hình kinh doanh mới, hoặc các hoạt động đổi mới sáng tạo.

Hay một quy định khác là quy định về thu nhập từ chuyển nhượng vốn, VCCI cũng phân tích dự thảo quy định DN nước ngoài có thu nhập chịu thuế phát sinh tại Việt Nam phải nộp thuế TNDN theo tỷ lệ phần trăm doanh thu, đối với doanh thu từ chuyển nhượng vốn, chuyển nhượng tài sản thuế suất là 2%.

Bộ Tài chính cho rằng, sở dĩ áp dụng quy định này là vì việc xác định chi phí tạo ra doanh thu gặp khó khăn, khó xác định lợi nhuận để tính thuế. Tuy nhiên VCCI lại cho rằng các trường hợp chuyển nhượng vốn của các khoản đầu tư trực tiếp vào Việt Nam thì việc xác định chi phí tương đối dễ dàng. Nếu quy định như Dự thảo Luật hiện nay sẽ ảnh hưởng đến những DN này…

Hà An
.
.
.