Áp giá trần với dầu của Nga - con dao hai lưỡi

Thứ Tư, 02/11/2022, 08:40

Bộ Tài chính Mỹ ngày 31/10 (giờ địa phương) ra thông báo cho biết, các tàu chở xăng dầu của Nga đóng hàng trước ngày 5/12 và dỡ hàng tại điểm đến trước ngày 19/1/2023 sẽ không phải chịu mức giá trần do chính phủ các nước phương Tây đưa ra.

Theo thông báo, Mỹ và chính phủ Nhóm các nền công nghiệp hàng đầu thế giới (G7) và Liên minh châu Âu (EU) đã có kế hoạch áp đặt giá trần đối với dầu của Nga bắt đầu từ ngày 5/12 tới, như một phần của các biện pháp trừng phạt chống lại Moscow do cuộc xung đột Ukraine. Tuy nhiên, mức giá trần cụ thể được áp dụng cho các lô hàng dầu thô và các sản phẩm dầu của Nga, vẫn đang được tính toán.

dau.jpg -0
Châu Âu tìm cách giảm phụ thuộc vào dầu mỏ nhập khẩu từ Nga.  Ảnh: RT.

Các cuộc thảo luận về mức giá giữa các nước G7 và Australia đang tập trung vào chi phí sản xuất dầu và giá lịch sử đối với dầu Urals của Nga. Một quan chức cấp cao của Bộ Tài chính Mỹ cho biết, dự kiến giá trần sẽ được xác định phù hợp với mức trung bình lịch sử giá ở mức 63- 64 USD/thùng, đây có thể tạo thành giới hạn mức giá tự nhiên.

Ngoài ra, việc dầu được dỡ xuống trước ngày 19/1 cho phép thị trường dầu có cơ hội làm quen với giới hạn giá. Các đối tác của liên minh gồm Mỹ, các nước G7, Australia có kế hoạch thực thi giới hạn bằng cách từ chối các dịch vụ hàng hải, chẳng hạn như bảo hiểm, tài chính, môi giới và hàng hải, đối với các hàng hóa dầu của Nga có giá cao hơn giới hạn.

Thách thức chủ yếu của phương Tây là nền kinh tế toàn cầu phụ thuộc vào dầu thô Nga. Nga là nhà sản xuất dầu lớn thứ ba thế giới và việc cấm dầu mỏ Nga sẽ gây ra những hậu quả nghiêm trọng cho nền kinh tế toàn cầu. Với việc lạm phát và giá năng lượng tăng kỷ lục, các nhà lãnh đạo phương Tây có lý do để tin rằng dầu mỏ Nga sẽ tiếp tục chảy ra thị trường thế giới và đóng góp vào tổng doanh thu của Moscow. Đảm bảo dòng chảy dầu mỏ Nga ra thị trường thế giới nhưng làm giảm doanh thu từ dầu mỏ của Moscow là mục tiêu đằng sau chính sách mới của phương Tây.

Ngoài việc dừng nhập khẩu dầu thô của Nga qua đường biển sau ngày 5/12, EU còn quyết định dừng nhập khẩu các sản phẩm từ dầu mỏ Nga sau ngày 5/2/2023. Nga sẽ phải thay đổi tuyến vận chuyển hơn 1/4 lượng dầu thô xuất khẩu của mình - ước tính khoảng 1,3 triệu thùng/ngày và khoảng 1 triệu thùng các sản phẩm từ dầu mỏ.

Hầu hết dầu mỏ Nga sẽ được vận chuyển tới Trung Quốc và Ấn Độ nhưng việc này sẽ làm tăng đáng kể chi phí vận chuyển của Nga. Dầu thô Nga mất trung bình 7 ngày để tới thị trường châu Âu trong khi mất tới 21 ngày để tới các nước châu Á. Nga cũng cần thêm 70 tàu chở dầu cỡ nhỏ Aframax để vận chuyển dầu tại các cảng dầu thô lớn của mình - vốn không thể sử dụng các tàu chở dầu lớn.

Châu Âu cũng tự tìm cách cứu mình khi tăng cường nhập khẩu dầu mỏ từ những khu vực xa xôi hơn như bên kia bờ Đại Tây Dương hay Tây Phi và Vịnh Ba Tư. Việc thay đổi các tuyến vận chuyển dầu mỏ toàn cầu sẽ có tác động mạnh đến thị trường tàu chở dầu và tăng sức ép lên giá dầu cũng như có nguy cơ làm suy yếu nền kinh tế thế giới.

Việc áp giá trần dầu mỏ Nga được cho là nhằm làm giảm rủi ro trên. Bắt đầu từ 5/12, Nga sẽ không thể bán dầu mỏ cho các bên thứ ba trên mức giá nhất định.

Giá trần sẽ hạn chế doanh thu từ dầu mỏ của Nga, đồng thời buộc Nga phải giảm giá dầu để bù đắp chi phí vận chuyển tăng cao do lệnh cấm vận nhập khẩu dầu Nga bằng đường biển của EU. Hiện Nga phụ thuộc vào ngành vận tải hàng hóa để xuất khẩu hầu hết dầu mỏ của mình. Các tàu chở dầu cần có các hợp đồng bảo hiểm trong khi các công ty của các nước EU và G7 chiếm ưu thế trên thị trường bảo hiểm hàng hải.

Chẳng hạn, International Group of P&I Clubs có trụ sở tại London bao quát 90% các rủi ro của bên thứ ba như các sự cố tràn dầu, vốn có thể khiến các chủ sở hữu tàu tốn hàng tỷ USD.

Theo kế hoạch của G7, các chủ sở hữu tàu sẽ phải thực hiện giá trần để nhận được hợp đồng bảo hiểm cho tàu. Lập luận của ý tưởng này là yêu cầu trên sẽ làm tăng chi phí vận chuyển của điện Kremlin và buộc Nga phải hạ giá dầu, thậm chí cả khi Moscow bán dầu thô sang các nước không tham gia vào sáng kiến trên của phương Tây.

Nga là một nhà xuất khẩu dầu lớn. Nước này xuất khẩu gần 4 triệu thùng dầu/ngày, lớn hơn nhiều so với con số 1,7 triệu thùng dầu của Iran và Venezuela gộp lại. Do đó, Moscow cần số lượng tàu chở dầu lớn hơn nhiều để có thể hoạt động ngoài phạm vi các lệnh trừng phạt về vận chuyển của phương Tây?

Câu hỏi đặt ra là liệu Nga có thể xây dựng được khả năng này hay không? Theo nhà quan sát Jan Stockbruegger, đáp án có lẽ là có. Công ty sở hữu nhà nước Sovocomflot của Nga sở hữu hàng chục tàu chở dầu có thể vận chuyển dầu thô Nga. Các nhà cung cấp bảo hiểm trong nước như Ingosstrakh và Công ty Tái bảo hiểm Quốc gia do chính phủ kiểm soát đã bắt đầu cung cấp các hợp đồng bảo hiểm cho các tàu vận chuyển dầu của Nga.

Nga cũng có thể dựa vào các công ty Trung Quốc và Ấn Độ liên quan đến các dịch vụ vận tải quan trọng. Chẳng hạn, công ty Register of Shipping của Ấn Độ sẽ cung cấp giấy chứng nhận an toàn cho các tàu chở dầu Nga trong khi các tàu của Trung Quốc có thể vận chuyển dầu thô Nga.

Lệnh trừng phạt của phương Tây cũng gặp hạn chế và khó khăn trong quá trình thực hiện bởi các công ty không phải của Mỹ có thể giúp Nga tránh lệnh trừng phạt do các nhà chức trách gặp khó khăn trong việc nhận được thông tin đáng tin cậy từ những quốc gia không sẵn sàng áp giá trần.

Chiến lược của phương Tây dường như cũng có thể phản tác dụng nếu Washington, Brussels và London không thể thực hiện áp giá trần và kiểm soát việc vận chuyển dầu mỏ Nga. Điều đó sẽ dẫn tới giá dầu tăng cao hơn, ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế toàn cầu và giúp doanh thu của Moscow tiếp tục tăng lên.

Khổng Hà (tổng hợp)
.
.
.