Nguyễn Hy Quang, một danh nhân Thăng Long tiêu biểu
Vừa qua, Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam và TP Hà Nội đã tổ chức cuộc hội thảo khoa học về cụ Nguyễn Hy Quang, một người thầy tài đức có công lao góp phần xây dựng nền thịnh trị của đất nước cuối thế kỷ XVII.
Cụ Nguyễn Hy Quang quê ở làng Trung Tự, phường Đông Tác, huyện Thọ Xương, kinh thành Thăng Long, nay là phường Phương Liên, quận Đống Đa, TP Hà Nội. Đó là một làng tươi đẹp ở hai bên đê La Thành, từ sát chùa và đình Kim Liên, một trong Thăng Long tứ trấn, đến giáp 2 phường Thổ Quan và Nam Đồng có di tích Đàn Xã Tắc nổi tiếng gần Ô Chợ Dừa.
Năm 1688, Chúa Định Vương Trịnh Căn (1682-1709) phong đích tôn Trịnh Bính làm Tấn Quốc Công (sau phong là Tân Quang Vương) cho mở phủ Tiết Chế kiêm Tổng Chính Quyền và ủy cho Tả Thị Lang Nguyễn Viết Thứ và ông phụ tá. Nhiệm vụ thật nặng nề nhưng ông đem hết sức làm tròn, tín nhiệm ngày càng tăng. Tuy vậy, với tinh thần tri túc (biết đủ), khi 58 tuổi ông xin nghỉ.
![]() |
| Đình làng Trung Tự. |
Năm 1692, ông lâm bệnh qua đời. Chúa lệnh nghỉ chầu 3 ngày, sai quan lo việc tang tế và tặng phong ông là Thượng Thư, tước Quận Công. Tiết Chế kiêm Tổng Chính Quyền Trịnh Bính không những đã tận tình chăm sóc thầy khi ốm, nay lại thân soạn văn tế thầy rất chân thành, thiết tha: "Học tất phải có thầy, lễ trước tiên là trọng đạo… Thầy có tài Kinh luận, truyền bảo cho trò. Trò nhờ dạy dỗ mà có kiến thức, vận dụng thực thi, làm lợi nước nhà. Tất cả hoàn toàn là nhờ ơn thầy!... Nhớ thuở học xưa, nghe lời giảng sáng, được đọc sách hay, thương xót khôn cùng!"…
Có thể nghĩ rằng tài trí đức độ và công lao của người thầy phải như thế nào mới để lại trong người học trò cũ nay giữ quyền cao chức trọng bậc nhất trong nước, tình cảm thắm thiết và sự biết ơn sâu sắc như thế, quy các việc làm lợi cho nước đều do công thầy!
Năm mươi năm sau, ông được gia phong làm Phúc Thần Đại Vương với lời đánh giá khá cao: "Sắc... Nguyễn Hy Quang... tài cao bậc lương đống (rường cột triều đình), vật báu như ngọc quý Phan Dư. Trong màn trướng đã bồi giảng nền học thánh hiền. Kịp thời đúng lúc và hết lòng phụ tá, góp nhiều ý hay vào mưu lược quốc gia. Ngày ngày lo nghĩ giúp (triều đình) hoàn thành nền thịnh trị...".
Như vậy, Nguyễn Hy Quang thông qua việc dạy học và phụ chính trong gần hai chục năm ấy ở cung đình đã góp một phần đáng trân trọng trong xây dựng nền thịnh trị của đất nước thời đó.
Về sự nghiệp Giáo dục và văn chương, cụ Nguyễn Hy Quang đã để lại cho hậu thế nhiều tác phẩm xuất sắc. Chúa Trịnh qua nhiều lần đàm đạo tỏ ý hài lòng về ông và tặng thơ, ông nhân đó soạn dâng Chúa bản "Quân thần luận" mong góp phần chấn chỉnh kỷ cương đất nước và yên dân. Bản "Quân thần luận" đã nêu rõ các đạo lý về quan hệ vua tôi, vấn đề hiểu biết và dùng người, vấn đề yên dân, và đặc biệt là hai vấn đề nóng hổi đương thời: Việc binh và việc hình cần phải thiết thực. Chúa Trịnh Tạc tán thưởng và ban khen, thăng làm Lang trung bộ Lại kiêm tri bộ Hộ. Chúa khen: "Bản Thập Tiệm của Ngụy Trưng cũng không hơn được".
Nguyễn Hy Quang hay làm thơ Chữ Nôm và có soạn sách. Ông để lại cuốn sách “Quốc âm sự dẫn”, được coi là của gia bảo của dòng họ Nguyễn làng Trung Tự. Đặc biệt, bài thơ "Cảm tác" bằng chữ Nôm được sáng tác khi xây xong nhà ngay trước hồ Ba Mẫu ngày nay là một trong những áng thơ Nôm thể lục bát cổ xưa nhất còn lưu giữ lại được cho đến ngày nay, có niên đại rõ ràng (1674), đã rất hoàn chỉnh, văn từ mượt mà. Có câu:
Bốn bề cây cối lơ thơ
Thung thăng con cá vật vờ đàn ong
Quả là hiếm câu lục bát xưa bảng lảng như thế.
Để tưởng nhớ công lao và sự đóng góp đối với đất nước của cụ Nguyễn Hy Quang, chính quyền và nhân dân phường Phương Liên và quận Đống Đa đã kiến nghị TP Hà Nội đặt tên "Nguyễn Hy Quang" cho một tuyến đường phố tại Thủ đô Hà Nội

