Người Việt ở Tân đảo và hành trình xa xứ
Phần lớn đã trở về Việt Nam sau kháng chiến chống Pháp. Nhưng dù trở về hay ở lại, họ đã luôn thể hiện tinh thần yêu nước bất khuất vốn có, rất đáng tự hào của người Việt Nam. Thế hệ sau của người chân đăng ở Tân đảo đã khẳng định niềm tự hào đó bằng cách thoát khỏi thân phận nô lệ, vươn lên trở thành những công dân ưu tú ở xứ đảo thuộc châu Đại Dương này.
Những dấu chân Việt đầu tiên trên Tân đảo
Năm 1891, người Pháp đã đưa những người tù chính trị Việt
Đầu thế kỷ XX, thực dân Pháp đẩy mạnh cuộc khai thác thuộc địa ở Việt
Những bản chiêu mộ này đưa ra hàng loạt những điều kiện hấp dẫn, thu hút người dân nghèo, ngoài chế độ tiền lương, mỗi ngày một người mộ phu sẽ được nửa cân gạo, 2 lạng thịt cá, rau củ quả và các loại đường, muối, xà phòng. Hàng nghìn thanh niên nam nữ lao động nghèo khó ở các tỉnh Hải Dương, Thái Bình, Nam Hà, Hải Phòng… vì tin vào lời chiêu mộ đó nên đã đăng kí mộ phu sang Tân đảo, với ước mơ đổi đời, họ đã điểm chỉ vào bản giao kèo, và bắt đầu hành trình chân đăng ở một đất nước hoàn toàn xa lạ.
Lên tàu ở cảng Hải Phòng, những người chân đăng đã phải vượt 2.000km trên Thái Bình Dương mới đến được Tân đảo. Trên đường đi, họ phải ở chen chúc trong những khoang tàu hạng bét, bị say sóng, nôn mửa, đau bụng vì buộc phải ăn thực phẩm kém vệ sinh do người Pháp cung cấp. Tất cả đều cắn răng chịu đựng với hi vọng khi đặt chân sang miền đất hứa, cuộc đời họ sẽ sang một trang khác. Nhưng chờ đợi họ ở Tân đảo không phải là cuộc sống sung sướng, đầy đủ như người Pháp hứa hẹn, mà là những chủ đồn điền tay cầm roi da, mặt mũi hung hữ; là những lời lẽ miệt thị dành cho những "nô lệ da vàng"; là những trận đòn khắc nghiệt, những mỏ quặng vắt kiệt sức lao động của người chân đăng.
Theo bản giao kèo đã kí giữa thực dân Pháp và những phu mỏ người Việt, thì mỗi ngày lao động chỉ kéo dài trong 9 tiếng. Nhưng trên thực tế, các chủ mỏ bắt người chân đăng làm việc từ 10 -12 tiếng một ngày, với công việc vô cùng nặng nhọc mà không hề có thêm bất cứ ưu đãi nào. Những người có sức khỏe thì làm việc ở các mỏ khai thác quặng. Phụ nữ và những người yếu hơn thì làm ở các đồn điền trồng dừa, tước xơ dừa, làm dây thừng và bao tải. Ai cãi lệnh hay làm trái ý chủ đồn điền sẽ bị trừ lương, bị đánh đập dã man. Đàn ông thì bị ngược đãi, phụ nữ thì bị các chủ đồn điền chòng ghẹo, cưỡng hiếp.
Phụ nữ Việt làm chân đăng ở Tân đảo còn trở thành món hàng để các chủ đồn điền trao đổi, mua bán hay để mua vui và thưởng cho các nhân viên có công trạng. Không chỉ thế, hết thời hạn 5 năm chân đăng, thực dân Pháp cũng không tổ chức cho những người chân đăng hồi hương như đã hứa.
![]() |
|
Người chân đăng biểu tình chống chủ đồn điền. |
Cùng lúc này, tin tức về cuộc cách mạng trong nước do Nguyễn Ái Quốc lãnh đạo đã khiến người chân đăng ở Tân đảo sôi sục ý chí chiến đấu. Những người vẫn chưa hết hạn phu dịch trong các đồn điền đã liên tiếp tổ chức các cuộc đình công, đòi quyền lợiNhiều cuộc biểu tình, người chân đăng đã bị các tên chủ nhốt lại, không cung cấp lương thực, thực phẩm, hòng đàn áp, khuất phục tinh thần đấu tranh. Nhưng khi đó, nhiều người Việt hết hạn phục dịch ra ngoài làm ăn, có của ăn của để, đã kêu gọi, tập hợp nhau lại gom góp tiền mua bột mì làm bánh, mua nước uống, rồi bí mật chuyển vào trại giam cho những người biểu tình bị bắt.
Đỉnh điểm của cuộc đấu tranh này là sự kiện 6 người chân đăng đã giết một chủ đồn điền ở đảo Malo và bị tòa án Port Villa kết án tử hình. Sau khị bị xử bắn, họ bị chôn trong cùng một ngôi mộ ở nghĩa trang Port Villa. Một thời gian sau đó, để trừng phạt những người chân đăng kém may mắn này, bọn thực dân cai quản Tân đảo còn cho xiềng xích lên ngôi mộ đó. Phải mấy chục năm sau, nhờ sự đấu tranh của người Việt tại đây, những người đã chết mới được tháo bỏ xiềng xích và trả lại tên họ. Đó mãi là một câu chuyện đau thương trong ký ức tất cả những người chân đăng thời đó. Cuối cùng, những chủ mỏ người Pháp ở Tân đảo đã phải chấp nhận nhượng bộ, trả lại quyền lợi chính đáng cho người chân đăng. Những người hết hạn hợp đồng được cấp thẻ căn cước ra ngoài làm ăn, xây dựng cuộc sống mới.
Người chân đăng và hai bài "quốc ca" sáng tác tại Tân đảo
Những năm 1940, thông tin về cuộc cách mạng ở trong nước khiến tất cả người chân đăng ở Tân đảo đều nức lòng chờ đợi. Như bao người Việt
Bài "quốc ca" đầu tiên được sáng tác năm 1944: "Đồng bào ơi mau mau tiến lên/ Cùng giải phóng ách nô lệ này/ Hãy phá tan xiềng xích trăm năm/ Thù thực dân anh em ta tím gan/ Thề dành tự do sống trong hòa bình/ Cụ Hồ Chí Minh trời kia đang ví/ Một lòng vì nhân dân đấu tranh giữ gìn sông núi/ Đạp chông gai đứng lên/ Vì nhân dân tiến lên/ Chống đế quốc, chống thực dân/ Vùng lên, vùng lên/ Những người Việt Nam anh hùng…".
Khi hay tin nước nhà độc lập, người chân đăng đã sáng tác cho ra đời một bài hát mới, được lấy tạm làm bài "quốc ca" để chào mừng sự kiện lịch sử này: "Cờ quốc túy nước Việt Nam trông xem hùng vĩ/ Ngọn cờ đào năm cánh hoàng tinh/ Đông dương gặp hội thanh bình/ Tôn thờ chủ nghĩa Việt Minh cộng hòa/ Chào cờ dân chủ quê ta/ Mau mau tỉnh dậy theo gương văn hóa nước nhà cho quen/ Đừng mê man trong đám đỏ đen/ Lãng quên hai chữ lợi quyền/ Đại Việt Nam đắc thế cộng hòa/ Chào cờ dân chủ quê ta…".
Bản nhạc này đã lưu truyền trong giới chân đăng, được tất cả trẻ em, người già, đàn ông, phụ nữ yêu thích. Họ học thuộc lòng rồi hát vang bài hát này ở bất cứ nơi đâu, bất cứ lúc nào. Đó được xem như "quốc ca" của người chân đăng ở quần đảo châu Đại Dương này, cho đến ngày bài "Tiến quân ca", quốc ca chính thức của nước Việt Nam được người chân đăng biết đến và bắt đầu hát theo.
Ngày 30/6/1946 là một ngày lịch sử với tất cả những người chân đăng Việt
Sau sự kiện đáng nhớ này, Hội Người Việt Nam yêu nước ở Tân đảo đã được thành lập, với mục đích đấu tranh đòi tự do, bình đẳng và quyền lợi cho người lao động Việt Nam ở đây sau khi kết thúc hợp đồng chân đăng. Cuộc đấu tranh đó đã kết thúc thắng lợi, mở ra một trang mới cho người Việt
![]() |
|
Ngưòi chân đăng hồi hương năm 1964 |
Một lòng hướng về quê hương
Dù xa xứ và bị buộc phải ở lại Tân đảo, nhưng những người Việt tại đây vẫn một lòng hướng về quê hương. Phần lớn người chân đăng là nông dân nghèo ít học. Nhưng họ đã hưởng ứng mọi cuộc đấu tranh để bảo vệ hình ảnh đất nước. Trong cuộc kháng chiến trường kỳ chống Pháp suốt 9 năm (1946 - 1954), chính phủ kháng chiến Việt Nam đã hơn một lần nhận được sự ủng hộ, đóng góp của người Việt ở Tân đảo.
Có một câu chuyện lịch sử rằng, sau khi Bác Hồ phát động "Tuần lễ vàng" kêu gọi người dân Việt Nam ủng hộ kháng chiến, tin tức này đã đến với kiều bào Tân đảo và được tất cả nhiệt liệt hưởng ứng. Họ đã quyên góp được hơn 1 triệu quan (lương của một phu mỏ ở Tân đảo chỉ khoảng 100 quan/tháng).
Vì không biết làm cách nào để chuyển tiền về nước, nên khi nghe tin Bác Hồ sang Pháp dự hội nghị, một đại diện cho kiều bào Tân đảo đã tới Pháp gặp Bác để bày tỏ nguyện vọng đóng góp cho cuộc cách mạng của dân tộc. Bác Hồ đã rất xúc động trước tình cảm của kiều bào ở đây nên đã viết thư cảm ơn. Từ đó về sau, kiều bào Tân đảo đã rất nhiều lần gửi tiền về nước, ủng hộ chính phủ kháng chiến. Tính bình quân, trong suốt từ năm 1946 - 1954, kiều bào Tân đảo là những người ủng hộ kháng chiến và cuộc kiến thiết lại miền Bắc những năm sau kháng chiến nhiều nhất.
Khi chưa thoát khỏi thân phận chân đăng, người Việt ở Tân đảo đã được nghe nói về Bác Hồ qua sách báo, qua những câu chuyện và cả những giai thoại được đồn đại khắp nơi. Tình yêu và sự ngưỡng mộ với Hồ Chí Minh vì thế mà cứ lớn dần lên. Bất cứ người Việt nào ở Tân đảo đều có thể tự tin khẳng định rằng, tình cảm và sự ngưỡng vọng mà Việt kiều Tân đảo dành cho Hồ Chí Minh không thua kém những người Việt đang sống trong nước. Khi đó ở đây, những tấm hình Bác Hồ được gửi từ Việt
![]() |
|
Bác Hồ đón tiếp đoàn Việt kiều Tân đảo hồi hương. |
Đến những năm 1950 - 1960, người Việt ở Tân đảo đã thoát khỏi kiếp chân đăng. Họ ra ngoài tự lao động, kiếm sống. Nhờ bản tính cần cù, chăm chỉ, chỉ trong một thời gian ngắn, người Việt nhanh chóng có một cuộc sống ổn định, đầy đủ, con cái được đến trường, học hành đầy đủ, có nhà cửa tiện nghi, xe cộ đi lại.Một số người còn vươn lên thành những người giàu có, đóng góp nhiều công lao cho quần đảo này.
Dù đã hòa nhập với người dân bản địa, nhưng những thế hệ con cháu của người chân đăng được sinh ra trên quần đảo này vẫn được nuôi dưỡng, giáo dục với một nền tảng mang đậm dấu ấn Việt. Họ được học chữ quốc ngữ, được giảng dạy về lịch sử, về truyền thống dân tộc, được truyền cho tình yêu thương với quê hương, đất nước. Chính vì vậy, hậu duệ của người chân đăng ở Tân đảo, dù chưa một lần đặt chân về Việt Nam vẫn có trong mình cốt cách, tinh thần và lòng tự hào đất Việt, vẫn nói tiếng Việt và sống theo phong cách Việt.
Khi kinh tế khá hơn, người chân đăng còn mở các trường dạy học tiếng Việt để đảm bảo cho con cháu sinh ra trên đảo luôn hướng về quê hương cố quốc. Người chân đăng ở Tân đảo ngày càng khẳng định được vị trí của mình trong xã hội trên quần đảo này, được chính phủ và nhân dân ở đây tôn trọng.
Tuy thế, khi nhận được lời kêu gọi hồi hương từ Chính phủ Việt
Từ đó đến năm 1964, đã có 11 chuyến tàu đưa hơn 6.000 Việt kiều Tân đảo trở về. Trong chuyến tàu cuối cùng, họ còn mang theo 11 chiếc xe được mua bằng số tiền mà toàn bộ Việt kiều sống ở Tân đảo đóng góp, để mang về tặng cho Chính phủ Việt
Trong chuyến hồi hương về Việt Nam, hơn 1.000 người khi đặt chân lên quê hương đã tình nguyện lên Tuyên Quang khai hoang, xây dựng kinh tế mới, dù lúc đó tất cả họ đều chưa hình dung được mảnh đất Tuyên Quang tròn méo ra sao. Lần trở về này, thế hệ thứ hai được sinh ra ở Tân đảo đã không khỏi bỡ ngỡ khi về thăm quê hương, chứng kiến một mảnh đất nghèo khó, bị tàn phá vì bom đạn chiến tranh.
Lên đến Tuyên Quang, một vùng rừng núi heo hút, rất nhiều người đã không khỏi bàng hoàng, sợ hãi trước sự hoang vu của vùng núi vốn nổi tiếng là rừng thiêng nước độc này, đặc biệt là thế hệ thứ hai của người chân đăng, những người được sinh và lớn lên giữa Thái Bình Dương. Nhưng không một ai trong số họ bỏ về, mà quyết tâm bám trụ lại mảnh đất Tuyên Quang. Họ dựng lán trại, phát rừng khai hoang, lập ấp rồi ổn định thành một ngôi làng Việt ngay bên bờ sông Lô.
Ngôi làng đó giờ vẫn được gọi là "làng Việt kiều" ven sông Lô. Cuộc sống của Việt kiều Tân đảo ở Tuyên Quang sau khi hồi hương so với kiều bào sinh sống ở các thành phố khác gặp rất nhiều khó khăn. Nhưng qua thời gian, cùng với sự phát triển của đất nước, họ đã dần đi vào ổn định, xây dựng miền đất Tuyên Quang ngày càng ổn định. Những người đã từng một thời đi chân đăng ở Tân đảo phần lớn đã qua đời, nhưng câu chuyện về họ vẫn được lưu truyền cho các thế hệ sau qua những câu chuyện gia đình.
Tân đảo giờ đã trở thành nước Cộng hòa
Nhưng người Việt ở
Nhiều người trong số họ đã giữ những vị trí cấp cao trong các đảng phái và cơ quan chính quyền. Ở New Cacedolia cũng tương tự, người Việt sau khi thoát khỏi phận chân đăng đã đem hết trí tuệ, sức khỏe, không từ một công việc lao động tay chân vất vả nào để mưu sinh và tích cóp cho tương lai. Vị trí của họ trong xã hội ngày càng cao, đời sống ngày càng khá giả. Giờ đây, dù chỉ chiếm chưa đến 2% dân số của đất nước này, nhưng vai trò của người Việt vẫn được lịch sử đất nước này vô cùng trân trọng. Nhiều Việt kiều Tân đảo đã trở nên giàu có, thành đạt trong các lĩnh vực kinh doanh, trở thành những tỉ phú giàu có nổi tiếng khắp quần đảo này.
Một thế kỷ đã trôi qua sau khi những người chân đăng đầu tiên đặt chân lên Tân đảo. Thế hệ chân đăng đầu tiên hầu như đã qua đời, những người còn lại cũng chỉ còn trên dưới chục người, tứ tán khắp nơi. Nhưng câu chuyện về những người chân đăng Việt Nam ở Tân đảo, hành trình từ một "nô lệ da vàng" vươn lên thành những người được tôn trọng trong xã hội vẫn là một câu chuyện được ghi nhớ trong lịch sử Việt Nam, New Cacedolia và Vanuatu, nơi họ đã ra đi, họ đã đến, đã sống, đã ở lại hoặc trở về



