Chia sẻ lợi ích cho người dân, sẽ chấm dứt khai thác rừng trái phép
Ngày 9/3, tại Hà Nội, Tổ chức Giáo dục, khoa học và văn hóa Liên hợp quốc (UNESCO) tổ chức Hội thảo “Phát huy tập quán địa phương trong các khu Dự trữ sinh quyển và Di sản thiên nhiên thế giới tại Việt Nam”. Hiện nay, Việt Nam có 8 Khu Dự trữ sinh quyển, 2 Di sản thiên nhiên thế giới, tổng diện tích gần 4,2 triệu ha với khoảng 1,4 triệu dân cư thuộc nhiều cộng đồng dân tộc thiểu số sinh sống.
Theo các nhà khoa học, hoạt động can thiệp thí điểm ở 4 Khu Dự trữ sinh quyển Cát Bà, Tây Nghệ An, Đồng Nai, Cà Mau bằng cách cho phép người dân khai thác thiên nhiên dựa vào tri thức bản địa để ổn định đời sống đang góp phần không nhỏ bảo vệ môi trường và bảo tồn tài nguyên thiên nhiên, di sản văn hóa. Ông Tiêu Hoàng Pho (Khu Dự trữ sinh quyển Cà Mau) cho biết, vùng U Minh Hạ vốn có nghề gác kèo ong hơn 200 năm trong khu vực rừng tràm, nhưng có nguy cơ biến mất. Hồi sinh nghề gác kèo ong, mỗi hộ dân tham gia mỗi năm sẽ có tối thiểu 10 kèo ong, thu nhập trung bình 18 triệu đồng, tương đương 1 tấn lúa.
![]() |
| Nhiều đại biểu đồng thuận với việc chia sẻ lợi ích cho người dân địa phương để bảo tồn thiên nhiên bền vững. |
Ở vùng lõi của Khu Dự trữ sinh quyển Cát Bà vẫn còn 31 hộ gia đình thuộc thôn Thông Trang sinh sống dựa vào rừng với nghề truyền thống là thu hái các cây lâm sản ngoài gỗ làm lương thực, thuốc men…, trong đó măng tre cho thu nhập 40 triệu đồng/ năm, quả sấu 15 triệu đồng/năm, cây xạ đen 20- 25 triệu đồng/năm. Nhưng mâu thuẫn giữa việc bảo tồn khu sinh quyển và duy trì nền văn hóa truyền thống, tri thức bản địa dẫn đến việc dù người dân đã bị ngăn cản vào rừng khai thác, nhưng số loài cây có giá trị nêu trên vẫn ngày một cạn kiệt. “Trước thực trạng trên, chúng tôi kiến nghị cần sớm xây dựng và ban hành một cơ chế chia sẻ lợi ích trong việc sử dụng bền vững và bảo tồn hiệu quả cây lâm sản ngoài gỗ tại Khu Dự trữ sinh quyển Cát Bà” - ông Hoàng Văn Thập, Giám đốc Vườn Quốc gia Cát Bà cho biết.
Các nhà khoa học và quản lý cùng đi đến thống nhất: tri thức địa phương và tập quán của cộng đồng đóng vai trò quan trọng để ổn định sinh kế và góp phần quản lý tốt tài nguyên; cần cân nhắc về tác động đến sinh kế khi đưa ra biện pháp quản lý tài nguyên; đối thoại liên tục và đầy đủ giữa người dân và cơ quan quản lý là cơ sở để phát huy tri thức và tập quán địa phương, ổn định sinh kế và quản lý tốt Khu Dự trữ Sinh quyển và Di sản thiên nhiên thế giới.
Bà Katherine Muller-Marin, Trưởng đại diện UNESCO tại Việt Nam nhấn mạnh ý nghĩa to lớn về sự đa dạng văn hóa và thiên nhiên của Việt Nam trên cả quy mô toàn cầu và địa phương: “Nhiều cộng đồng địa phương sống trong Khu dự trữ sinh quyển và khu vực di sản thế giới có những kiến thức được tích lũy qua nhiều thế hệ rất phong phú gắn với việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên của địa phương, cần bảo vệ, phát huy để các kiến thức này được bảo vệ và tích hợp vào các sáng kiến phát triển kinh tế xã hội”.
Giáo sư Nguyễn Hoàng Trí, Tổng Thư ký Chương trình và Sinh quyển Việt Nam cho biết thêm: “Tôn trọng và phát huy tập quán sử dụng tài nguyên thiên nhiên bền vững của người dân địa phương là điều rất quan trọng liên kết giữa văn hóa và thiên nhiên. Đây là chìa khóa để phát triển bền vững”

