Dân số Việt Nam đạt mức 90,493 triệu người

Thứ Tư, 17/12/2014, 18:47
Ngày 17/12, tại Hà Nội, Tổng cục Thống kê- Bộ KH&ĐT đã công bố các kết quả chủ yếu của Điều tra dân số và nhà ở giữa kỳ (IPS). Theo đó, Tổng cục Thống kê đã công bố đến 00h sáng ngày 1/4/2014, dân số Việt Nam đã là 90.493.352 người, bao gồm 41.618.668 nam (chiếm 49,3%) và 45.874.684 nữ (chiếm 50,7%).

Trong 5 năm qua, dân số Việt Nam đã tăng thêm 4.646.355 người, trung bình mỗi năm tăng 929.271 người. Tỷ suất tăng dân số trung bình mỗi năm là 1,06% giai đoạn từ 2009-2014, thấp hơn so với tỷ suất tăng dân số 1,2% mỗi năm trong giai đoạn 1999-2009. Tổng tỷ suất sinh là 2,09 trẻ trên một phụ nữ. Các kết quả trên khẳng định rằng, tỷ lệ sinh của Việt Nam đang tiếp tục giảm và ổn định dưới mức sinh thay thế trong thập kỷ vừa qua, đúng như kết quả của các cuộc Điều tra biến động dân số và kế hoạch hóa gia đình hàng năm của Tổng cục Thống kê. Tỷ suất chết trẻ em dưới 1 tuổi (IMR) là 14,9 trẻ em dưới 1 tuổi chết trên 1.000 trẻ sinh sống, đã khẳng định nỗ lực của Chính phủ Việt Nam trong nhiều năm qua trong việc cải thiện chăm sóc y tế sức khỏe cho bà mẹ va trẻ em. Ba tỉnh, thành phố với số dân trên 3 triệu người là thành phố Hồ Chí Minh (7,955 triệu người), Hà Nội (7,067 triệu người) và tỉnh Thanh Hóa (3,491 triệu người). Điều tra cũng đã cho thấy điều kiện sinh hoạt của người dân đang được cải thiện. 46,6% hộ gia đình sống trong nhà kiên cố, 43,7% hộ sống trong nhà bán kiên cố, 5,9% hộ có nhà thiếu kiên cố và 3,7% hộ có nhà đơn sơ. Diện tích ở bình quân đầu người của cả nước là 20,6m²; 23,0m²/người tại khu vực thành thị và 19,5m²/ người tại nông thôn.

Ông Arthur Erken, Trưởng đại diện Quỹ Dân số Liên hợp quốc tại Việt Nam đánh giá, các kết quả này đã chỉ ra được những tiến bộ của Việt Nam trong phát triển kinh tế xã hội. Đây cũng là cơ hội để các nhà hoạch định chính sách sử dụng số liệu dân số mới nhất để định hướng cho các mục tiêu cho phát triển kinh tế xã hội và các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ. Ông Arthur Erken cho rằng, sự thay đổi nhân khẩu học đòi hỏi Việt Nam cần có những chính sách kịp thời, phù hợp trong các lĩnh vực như: giáo dục, việc làm, an sinh xã hội… đồng thời, khuyến nghị các cơ quan, Ban, ngành Trung ương, các doanh nghiệp trong việc đầu tư nguồn lực cũng như việc sử dụng những số liệu này để xây dựng các chính sách cũng như xây dựng các mục tiêu chương trình của quốc gia. 

Lưu Hiệp
.
.
.