Phát triển thủy điện mất kiểm soát và cái giá đắt phải trả:

Bài cuối: Giải pháp nào để sống chung với thủy điện?

Thứ Hai, 25/11/2013, 08:00
Lưu trữ nước và xả lũ là hai mặt hữu cơ của hoạt động thủy điện. Mặc dù hiện nay, 424 dự án thủy điện đã bị loại bỏ nhưng không có nghĩa là nỗi lo đã hết. Cả nước vẫn còn đến 815 dự án thủy điện, trong đó 268 dự án đã vận hành phát điện đến mùa vẫn cứ phải xả lũ, 205 dự án đang thi công vẫn treo lơ lửng nhiều mối lo về an toàn, và thêm nữa, 136 dự án mới “tạm dừng”, liệu ai dám khẳng định sẽ có lúc lại được triển khai ào ạt, gieo rắc nỗi khiếp sợ cho người dân? Có những sai lầm đã được “vạch mặt chỉ tên”, nhưng có những thứ đã không còn khả năng sửa chữa, ngoài việc phải tìm cách sống chung với… thủy điện.
>> Bài 1: Nỗi ám ảnh dưới những "túi nước" khổng lồ

Việc cần làm ngay bây giờ là giúp người dân bảo vệ quyền lợi và tính mạng của mình, chấm dứt chuỗi ngày cần là… xả của những chủ đập thiếu trách nhiệm.

Thủ tướng đồng ý với phê duyệt quy hoạch, kiểm soát chặt quy chế xả lũ

Là một chuyên gia trong lĩnh vực thủy điện, thủy lợi, khi làm việc với PV Báo CAND, GS.TS Nguyễn Thế Hùng, Phó Chủ tịch Hội Cơ học Thủy khí Việt Nam, ĐH Bách khoa Đà Nẵng thẳng thắn đánh giá:

Đối với thủy điện bây giờ, có 2 việc cần làm là chấm dứt những việc sai trong tương lai, và giải quyết hậu quả cho những tồn tại đã xảy ra, không thể thay đổi. Câu chuyện của tương lai chính là quy hoạch. Về vấn đề này, nhiều chuyên gia và đại biểu Quốc hội cũng đã lên tiếng. Mới đây nhất, trong phiên trả lời chất vấn của mình, Thủ tướng cũng đã có giải pháp hợp lý – đó là chấm dứt tình trạng đưa qua đẩy lại trách nhiệm. Thủ tướng đã gọi thẳng tên Bộ Công thương phải chịu trách nhiệm quản lý thống nhất trong cả nước đối với các dự án nằm trong quy hoạch, chưa khởi công xây dựng (248 dự án), chứ không còn tình trạng “phối hợp với địa phương và các bộ, ngành khác” và việc của “chúng ta” nữa. Thủ tướng cũng yêu cầu trước khi phê duyệt quy hoạch phải báo cáo, Thủ tướng đồng ý mới phê duyệt. Quy trình chấp thuận để khởi công xây dựng dự án cũng phải chặt chẽ hơn. Đối với các dự án nhóm B, nhóm C phải được Bộ Công thương chấp thuận, trước đó phải được hội đồng thẩm định xem xét. Đối với các dự án nhóm A, Bộ Kế hoạch và Đầu tư phải lập Hội đồng thẩm định Nhà nước thẩm định để trình Thủ tướng quyết định.

Tuy nhiên, nhiều đại biểu Quốc hội và chuyên gia vẫn kiến nghị nên dừng hoàn toàn các dự án thủy điện nhỏ, vì đóng góp chẳng bao nhiêu trong khi tiềm ẩn nhiều hậu quả. “Hiện nay, thủy điện đã an bài. Những chỗ nào có thể làm thủy điện được, đều đã xây hết. Số lượng thủy điện như đã có là đủ rồi. Chúng ta cần dừng tất cả các thủy điện nào chưa xây dựng để đánh giá lại, lợi đâu, hại đâu. Hơn 6.000 tỉ đồng mỗi năm do thủy điện mang lại không phải là con số quá lớn, trong khi nếu không kiểm soát được thì năm nào cũng phải đối mặt với tình trạng hạn hán mùa kiệt, gia tăng lũ mùa lũ. Với điều kiện phát triển hiện nay, dân cư đông, việc xây dựng thủy điện chuyển dòng là vấn đề tối kị. Tại vì chuyển nước sẽ tạo nên sự xáo trộn rất lớn về dòng chảy, gây nên sự tranh chấp nguồn nước, như trường hợp Thủy điện Đắk Mi 4 vừa qua” – TS Đào Trọng Tứ, Giám đốc Trung tâm Tư vấn phát triển tài nguyên nước và thích nghi biến đổi khí hậu trao đổi với PV Báo CAND.

Chính quyền địa phương và người dân được quyền giám sát quy trình xả lũ

Sau những thảm cảnh đắng đót mà người dân miền Trung phải gánh chịu do cái họa “thiên tai” cộng với “nhân tai” thì những “lỗ hổng” chết người trong việc quy hoạch, quản lý, phát triển vô tội vạ thủy điện mới được đào xới lại. Theo báo cáo, hiện cả nước hiện có hơn 6.000 hồ chứa thủy lợi, 266 hồ thủy điện (chưa kể 268 dự án thủy điện đang thi công). Trong đó có 560 hồ chứa lớn (dung tích hơn 3 triệu m3 nước), hơn 1.700 hồ có dung tích vừa, 4.300 hồ chứa nhỏ. Với việc quản lý lỏng lẻo, chất lượng xây dựng nhiều công trình có vấn đề bị “phát lộ” trong thời gian qua, chưa đề cập đến quy trình xả lũ đúng hay sai thì với số lượng hồ chứa khủng này thực sự đang đe dọa cuộc sống của người dân, đòi hỏi chúng ta phải khẩn trương tìm giải pháp sống chung với nó.

Đại biểu Quốc hội Đỗ Văn Đương (TP Hồ Chí Minh) đề nghị phải có quy định, quy chế chặt chẽ về xả lũ để đảm bảo an toàn cho người dân, thậm chí xử lý hình sự nặng đối với thủy điện xả lũ gây hậu quả nghiêm trọng cho hạ du. Đối với những dự án thủy điện ở miền Trung “vào thế đã rồi” thì phải giám sát chặt chẽ quy trình xả lũ. Nhất là đối với hệ thống thủy điện bậc thang trên sông Thu Bồn và sông Vu Gia, phải đưa ra quy trình xả lũ liên hồ và thực hiện nghiêm ngặt.

GS.TS Nguyễn Thế Hùng kiến nghị: Phải tìm giải pháp dung hòa, vì thủy điện đã xây dựng rồi, đảm bảo lợi ích giữa doanh nghiệp và người dân. Muốn vậy, Nhà nước phải đóng vai trò trung tâm, phải bố trí trạm thủy văn đầu nguồn, dự báo tương đối chính xác lưu lượng nước chảy về hồ vào mùa mưa. Các hồ chứa phải xây dựng các hồ dự phòng; có giám sát của đại diện chính quyền và nhân dân, giám sát chặt chẽ mức nước bằng các biện pháp kỹ thuật, như camera giám sát, nhưng làm được hay không điều này phụ thuộc vào quyết tâm cao của Chính phủ.

Xả lũ thuỷ điện cùng với mưa lớn khiến nhiều khu dân cư ở xã Phú An, huyện Phú Vang, Thừa Thiên - Huế ngập sâu trong nước. Ảnh: TTXVN.

Ngày 24/11, trao đổi với PV Báo CAND, ông Phạm Thế Dũng, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh Gia Lai – địa phương đang có “vinh dự” sở hữu khá nhiều công trình thủy điện cho biết: Vấn đề giải pháp lâu dài cho việc xả lũ của thủy điện cần thực hiện quy trình phòng lũ, chủ động xả lũ trước theo dự báo, chứ không nên để “nước đến chân mới nhảy”. Để thực hiện điều này, phía quản lý thủy điện phải nắm chắc dự báo thời tiết, thực trạng hệ thống sông nước ở địa bàn để sớm có kế hoạch xả lũ trước một cách hợp lý, kéo giãn thời gian xả lũ, không nên dồn một lúc. Cần quy định lại thời gian báo trước xả lũ phải ít nhất từ 12 đến 24 giờ, thay vì thông báo trước 2 giờ đồng hồ như quy định hiện nay là quá gấp, chính quyền địa phương và người dân không thể nào trở tay kịp. Việc quản lý, quy định xả lũ thủy điện cần phải được xem xét lại một cách chi tiết, tính toán xả lũ phải gắn với thực tế khi thời tiết xảy ra ở từng địa phương, địa bàn, chứ không thể quy định trên giấy.

Đã có luật và nhiều văn bản quy định về an toàn hồ đập được ban hành, có hiệu lực từ lâu như: Luật Tài nguyên nước, Nghị định 72 về Quản lý an toàn đập, Pháp lệnh khai thác và bảo vệ công trình thủy lợi, Pháp lệnh phòng chống lụt bão… tuy nhiên vẫn còn quá nhiều “lỗ hổng” cần sớm bổ sung, điều chỉnh. Ủy ban KH,CN&MT của Quốc hội đã đề nghị cần ban hành đủ quy trình vận hành liên hồ chứa cả trong mùa lũ và mùa kiệt trên các lưu vực sông; quy định rõ cơ quan đầu mối, chịu trách nhiệm chính, điều phối chung giữa các chủ đập khi các hồ chứa trên cùng lưu vực sông cùng tham gia xả lũ, ứng phó với các sự cố đối với hệ thống liên hồ chứa. Và như TS Đào Trọng Tứ đưa quan điểm là cần phải thêm nghĩa vụ cho chủ đầu tư chứ không chỉ lo phát điện lấy tiền. Hiện nay, thủy điện miền Trung đều là các công trình đơn mục tiêu, chủ yếu vận hành phát điện chứ không có chức năng điều tiết lũ cho hạ du. Do vậy, giải pháp tối ưu nhất là phải điều chỉnh nhiệm vụ, chức năng của công trình, từ đơn mục tiêu trở thành đa mục tiêu. Dòng sông là của chung, cuộc sống của hàng triệu người dân gắn liền với dòng sông. Do đó, không phải thủy điện chỉ tập trung mục đích phát điện rồi nộp thuế cho Nhà nước là xong nghĩa vụ…

Cần có tổ chức đại diện đòi quyền lợi chính đáng cho người dân bị thiệt hại.

Cần có tổ chức đại diện đòi quyền lợi cho người dân

Trong quá trình thực hiện chuyên đề này, suốt dặm dài miền Trung và cả trong nghị trường Quốc hội, chúng tôi có dịp trao đổi với nhiều nhà khoa học, các luật sư và họ đều chung một ý kiến rằng: Thiệt hại do ngập lụt ở miền Trung vừa qua là rõ ràng. Người dân có thể khởi kiện chủ đầu tư các công trình thủy điện bồi thường thiệt hại trong trường hợp xả lũ không đúng quy trình. Mùa mưa lũ năm nay, “khúc ruột miền Trung” đã phải oằn mình, điêu đứng trong lũ dữ, nhưng đến thời điểm này, chưa thủy điện nào và cũng chưa có ai phải chịu trách nhiệm. Không lẽ lại điệp khúc… hứa hẹn rồi “hòa cả làng” và rồi người dân phải biết kêu ai, phải tiếp tục lãnh hậu quả không phải do mình gây ra đến bao giờ?

Trao đổi với Báo CAND về tình trạng cần phải thay đổi này, ông Phạm Quang Tú, Phó Viện trưởng Viện CODE cho rằng: Muốn được bồi thường, người dân phải liên kết với nhau và thông qua tổ chức đại diện của mình. Trước đây, người dân Bà Rịa - Vũng Tàu,  Đồng Nai... đã thành công trong việc yêu cầu Công ty VEDAN bồi thường vì đã gây ô nhiễm môi trường. Nay người dân miền Trung cũng hoàn toàn có quyền yêu cầu chủ đầu tư các công trình thủy điện bồi thường thiệt hại nếu việc xả lũ không đúng quy trình. Muốn vậy, người dân phải liên kết với nhau thông qua tổ chức của mình là Hội Nông dân. Hội Nông dân sẽ đại diện cho người dân để phối hợp với các nhà khoa học, luật sư nhằm củng cố cơ sở pháp lí, đồng thời thống kê thiệt hại. Khi người dân sát cánh bên nhau, cùng chung mục tiêu thì việc đòi bồi thường có thể thực hiện được.

Tình trạng phát triển thủy điện ồ ạt, tràn lan “mạnh ai nấy làm”, nhất là ở khu vực miền Trung và Tây Nguyên, đã dẫn đến bao hệ quả nhỡn tiền. Lợi ích của “phong trào” thủy điện đem lại chưa nhiều nhưng hệ lụy của nó thì khủng khiếp. Đây là hệ quả của sự yếu kém của công tác quản lý Nhà nước, của năng lực, trình độ; cả ở cái tâm, cái tầm cán bộ cùng tình trạng mạnh ai nấy làm. Hậu quả đắng chát là người dân phải gánh chịu, nhưng tìm người để quy trách nhiệm không dễ dàng gì bởi lỗi tại tập thể, lỗi tại… “chúng ta”!

Kiến nghị xây dựng các kịch bản phòng chống lũ lụt vùng hạ du, ứng phó sự cố xả lũ khẩn cấp

Nhận định trong không ít trường hợp, an toàn đập, hồ chứa công trình thủy điện còn gắn với an ninh quốc gia, Ủy ban KHCN&MT Quốc hội đã đề nghị Chính phủ chỉ đạo tiếp tục rà soát, đánh giá, sửa đổi, bổ sung, ban hành mới các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan tới đầu tư xây dựng, vận hành đập và hồ chứa thủy điện, cụ thể là các quy định về kiểm định, bảo đảm an toàn, tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật. Ngoài ra, cần tiếp tục đầu tư nguồn lực cho xây dựng, vận hành hệ thống quan trắc, giám sát, điều tra, khảo sát điều kiện tự nhiên; nghiên cứu, xây dựng các kịch bản phòng chống lũ lụt vùng hạ du, ứng phó sự cố xả lũ khẩn cấp, tình huống vỡ đập. Nhiều chuyên gia khoa học đã kiến nghị chủ thủy điện xây dựng quy trình về bài toán vỡ đập để chủ động các giải pháp ứng phó; phải tổ chức các đợt diễn tập giống như Nhật Bản tập rượt sóng thần để người dân chủ động.

Đại biểu Quốc hội Nguyễn Thị Khá: Tôi rất muốn Quốc hội có một nghị quyết rất rõ đánh giá một cách toàn diện về thủy điện

Cái nào phát huy hiệu quả, cái nào hiệu quả ít mà thiệt hại nhiều. Đặc biệt là sắp tới, muốn phê duyệt một đề án nào về thủy điện phải có 1 báo cáo đánh giá tác động kèm theo, phải cam kết chịu trách nhiệm nữa. Để xảy ra hậu quả rồi mới tính đến bồi thường cho người dân là không thể bồi thường hết được. Lý do là có những thiệt hại là trước mắt, nhưng cũng có thiệt hại rất lâu dài như mất đất, phá hoại sự màu mỡ của đất để người dân sản xuất sau này, đâu phải một ngày một bữa là khắc phục được đâu. Không phải chỉ bồi thường cây con hư đổ là xong. Còn kế hoạch làm ăn lâu dài của người dân nữa, kể cả khủng hoảng tinh thần, ý chí của người dân.

TS Đào Trọng Tứ: Cân nhắc để tư nhân làm thủy điện

Nhiều nước trên thế giới không để tư nhân làm thủy điện. “Ở Mỹ, không có chuyện cho tư nhân làm đập, tất cả các đập đều do Quân đội quản lí, vận hành. Trung Quốc cũng vậy, các đập đều do Nhà nước quản lí. Ở Việt Nam, vẫn còn có nhiều đập vừa, thậm chí lớn được giao cho tư nhân khai thác, điển hình như thủy điện Bình Điền, Sêrêpôk 4... Thủy điện có những yếu tố đặc thù, vì vậy không nên giao cho tư nhân, trừ những công trình thực sự nhỏ. Giao cho tư nhân cũng phải kiểm soát chặt chẽ, tránh tình trạng chủ đầu tư tranh thủ phá rừng, khai thác khoáng sản, chỉ tập trung mục đích phát điện để mau sinh lời”.

M. Hà - V. Hân - H. Ly - L.Vân - N. Như - T.Huy
.
.
.