Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp: Thơ là mẹ của mọi thể loại văn học?

Thứ Sáu, 19/07/2024, 09:42

Trước khi qua đời, những tháng ngày cuối cùng trên giường bệnh, hẳn nhà văn Nguyễn Huy Thiệp cũng thấy ấm lòng khi bạn bè văn chương và những người quý mến ông đã đến thăm nom và động viên nhà văn cố vượt qua bệnh tật hiểm nghèo và số phận không mấy dễ chịu của một người viết.

Dường như không chịu bó tay trước số phận, trong những ngày bệnh trọng, ông mê mải vẽ và làm thơ như muốn chia sẻ những tâm sự cuối cùng của mình về cuộc đời, về người thân, về văn chương, về bạn bè.

nhà van nguy%3fn huy thi%3fp (bên ph%3fi) và nguy%3fn vi%3ft chi%3fn t%3fi khoa vi%3ft van-báo chí ð%3fi h%3fc van hóa copy.jpg -0
Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp (bên phải) và tác giả bài viết ở Khoa Viết văn - Báo chí, Trường Đại học Văn hóa.

Khoảng chục năm trước đây, có thời gian nhà văn Nguyễn Huy Thiệp và tôi được mời dạy thỉnh giảng cho sinh viên năm thứ ba tại Khoa Viết văn - Báo chí, Trường Đại học Văn hóa. Tôi cũng có đôi lần được ngồi đàm đạo với ông về thi ca. Tôi còn nhớ mãi lần trò chuyện cuối cùng với Nguyễn Huy Thiệp trước khi ông gặp bạo bệnh. Hôm đó, tôi mang mấy đồng nhuận bút còm của một tờ báo đến thăm “Tướng về hưu”. Tôi phải đi lòng vòng qua gần chục con ngõ quanh co của một ngôi làng cũ nằm ở xóm cò, làng Khương Hạ, quận Thanh Xuân, Hà Nội.

Ngôi nhà của ông cũng phong phanh, chân chất, giản dị, như chủ nhân của nó. Nguyễn Huy Thiệp vốn dễ gần và cũng dễ lạ. Gần là bởi cái giọng nói thào thào, cũ cũ và dáng điệu chất phác của ông. Lạ là bởi cái tư duy sắc sảo, phá cách, đổi mới và không chấp nhận sự bằng phẳng, rỗng mòn, cũ kỹ trong văn chương của ông.

Trông vẻ bên ngoài, Nguyễn Huy Thiệp cứ thù là, thù lù như một ông già phó thường dân quê kệch, có thể sẵn sàng lẫn vào cái đám đông bụi bặm, cần lao nơi phố thị không mấy sủi tăm. Nhưng bên trong con người văn nhân lão thực của ông, tôi thấy thấp thoáng một triết nhân lạnh lùng với những suy tư khá độc đáo và vượt lên trên mọi kiến giải nhân sinh đã định hình. Vậy là cái gần gũi cứ trộn lẫn với cái xa lạ, cái dễ hiểu trộn lẫn với sự khó hiểu, cái chừng mực trộn lẫn với sự thông tuệ vượt lên mọi khuôn phép... phải chăng đã làm nên một phong thái, một phong văn Nguyễn Huy Thiệp.

“Năm tháng cuối đời rút dần vào vô minh"

Mấy năm cuối đời, ngoài các tác phẩm nổi tiếng làm nên tên tuổi lừng danh của mình trước đây, dường như Nguyễn Huy Thiệp không viết được gì thêm. Trao đổi với tôi về việc này, ông trải lòng: “Dạo này mình cũng chẳng thiết viết gì nữa! Viết văn đến cái độ nào đó thì cũng phải biết thôi, biết dừng lại, phải biết tiết chế chứ, mình có phải vô địch thiên hạ đâu? Viết nhiều, bọn trẻ nó cũng coi thường và cũng phải nhường đất cho bọn trẻ họ viết chứ. Cũng như hồi mình mới xuất hiện, lúc nào mình cũng thấy ông Nguyễn Đình Thi, ông Nguyễn Khải... mình cũng chán chứ. Bây giờ lại tới lượt Nguyễn Huy Thiệp cứ lù lù ra đấy, bọn trẻ nó cũng chẳng ưa đâu. Do vậy, mình rút dần vào vô minh...”.

Tôi đặt câu hỏi: “Độc giả và dư luận hình như vẫn còn đợi nhà văn ở mảng tiểu thuyết, ngoài cuốn “Tuổi hai mươi”, ông còn cuốn nào không?”. Nguyễn Huy Thiệp chậm rãi: “Tiểu thuyết ư! hiện vẫn còn cuốn “Bên rìa nước” bên công ty Nhã Nam đang xin giấy phép. Cuốn tiểu thuyết viết theo kiểu võ hiệp này tôi viết trong 10 năm. “Bên rìa nước” là những chuyện hiệp nghĩa, khôi hài và hoang đường chép bên rìa nước kinh thành. Tiểu thuyết chưởng này gồm 16 chương. Trước kia tôi viết cuốn “Võ lâm ngoại sử” chỉ là bản nháp thôi, chưa phải là tác phẩm hoàn chỉnh như cuốn này. Đây cũng là cuốn sách kén độc giả. Tôi chủ trương in cũng được, không in cũng được, cũng tốt...”.

Tôi lật qua ít trang bản thảo cuốn “Bên rìa nước”, thấy có nhiều đoạn viết như thơ, bèn hỏi nhà văn. Nguyễn Huy Thiệp bảo: “Đây không phải là thơ bình thường. Đây là thơ kệ, đây là tổng hợp của nhiều loại thơ cổ của Việt Nam. Các ông làm thơ thời “công-nông-binh” hiện nay cũng có cái hay của nó.

Nhưng ngày xưa, tôi cho rằng, người xưa coi thơ là mẹ của mọi thể loại. Nó là ngôn ngữ tối thượng, cao quý và cao nhất. Và, người xưa mới đầu học làm thơ 2 chữ: “Vào làng/ Xin thịt/ Ra làng/ Xin xôi” rồi thơ 3 chữ: “Đi bên sông/ Về bên sông/ Trồng cây cải/ Bơi đò ngang/ Một đò ngang/ Hai ngang đò”, tiếp đến thể thơ 4 chữ và 5 chữ, 6 chữ, 7 chữ, 8 chữ, 9 chữ.

Và thơ lục bát Việt Nam nó giống như thể thơ Hai-kư của Nhật Bản. Nó là quốc hồn, quốc túy. Và, lục bát nó giống như chính trị, giống như giáo dục, giống như... mọi thứ nọ, kia. Nó có Bắc tông và Nam tông. Bắc tông là học dần dần theo hệ tiệm ngộ, học theo tuổi, theo trình độ học thức, nên nó có lớp 1, lớp 2 và các lớp cao hơn, rồi đại học, từ từ mà lên. Còn Nam tông là học từ kiếp trước, tức là nó đốn ngộ, giác ngộ trong một phút sát-na thôi mà thông hiểu hết”.

Trước khi trở thành “Vua truyện ngắn”, Nguyễn Huy Thiệp cũng từng làm thơ nhưng không thành. Ngồi nói chuyện văn thơ với nhà văn Nguyễn Huy Thiệp mới biết ông rất quý trọng cố nhà thơ Đồng Đức Bốn. Có thể tình bạn giữa hai ông vừa mang hơi thở mộc mạc bùn đất chốn chân quê vừa mang tính ngang tàng, bất cần của những văn tài một thời “bất đắc chí”. Phải chăng vì thế, nó khiến cho cái tình giữa hai người văn lãng tử trở nên sâu đậm, gắn bó.

“Người “không thơ” khác nào một kẻ mồ côi!?”

Điều đáng nói, tuy đã có bài viết công khai chê thơ của nhiều người, nhưng Nguyễn Huy Thiệp lại thích thơ Đồng Đức Bốn mà như ông nhận xét cũng thuộc vào dạng “thơ tự phát và ít học”. Ông thích những câu thơ xuất thần kiểu đốn ngộ của Đồng Đức Bốn và nhận định: “Nó có được học hành gì đâu, lớp sáu không xong, làm thơ là làm trong đầu, tay run lẩy bẩy có viết nên hồn đâu mà tại sao nó có những câu thơ kỳ lạ thế. Nó là thằng đốn ngộ. Nó có học thầy nào đâu. Thầy của nó là cuộc đời. Nên tôi thích thơ Đồng Đức Bốn là vì nó có những câu thơ xuất thần kiểu đốn ngộ: “Cái đêm em ở với chồng/ Để ai hóa đá bên sông đợi đò/ Cái đêm hôm ấy gió mùa/ Tơ nhện giăng đến cổng chùa thì tan/… Cái đêm lành lạnh gió mùa/ Em trong chăn ấm có đùa với ai/... Ngang trời tiếng vạc mảnh mai/ Chém trăng đã đứt thành hai mảnh rồi/ Mảnh nào em để cho tôi/ Khi buồn chỉ đặt ngang môi làm kèn….”.

Có điều gì mâu thuẫn trong cách “bình luận thơ” của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp chăng? Tôi cho không có gì là mâu thuẫn trong việc ông Thiệp chê thơ người này và khen thơ người khác, bởi vì sự khen hay chê đều nằm ngoài thơ và chỉ có thời gian mới là thước đo sòng phẳng nhất đối với sự tồn tại, còn lại đích thực của thi ca.

Khi viết lời tựa cho tập thơ của Đồng Đức Bốn, nhà văn Nguyễn Huy Thiệp đã nhận xét như sau: “Tôi đã có lúc cho thơ là mẹ của mọi thể loại văn học, thậm chí là mẹ của mọi hình thức sáng tạo (của chính trị, của toán, của kiến trúc, của nấu ăn, của hội họa, của “mốt”…). Người không “thơ” khác nào một kẻ mồ côi: “Mồ côi mẹ liếm lá đầu đường”. Con người vô ơn (con người bao giờ cũng vô ơn) thường rất bạc với mẹ. Có ai ghi nhớ việc mẹ sinh hạ, mẹ bú mớm, mẹ giặt giũ, mẹ đính cho chiếc khuy trên áo… Thơ thường không bao giờ là một sự nghiệp. Mẹ không bao giờ là một sự nghiệp của con. Thơ là một thể loại văn học cổ điển nhất, xưa nhất. Thơ hình như khó nhất trong các thể loại văn học”.

Nhận định về người làm thơ, Nguyễn Huy Thiệp đăm chiêu cho rằng: “Có mấy loại người làm thơ? Loại một chắc chắn là các thiên thần. Họ vụt đến, vụt đi và để lại những bài thơ, những câu thơ thiên thần. “Nhưng chưa chi chiều đã tắt”. Trong đời mỗi người cũng có những giai đoạn, những khoảnh khắc thiên thần. Đấy là những người thơ trẻ trung, những trai tân. Vậy sao không phải gái tân? Gái tân thì thơ làm gì? Đừng lầm với vật hiến tế!”, Nguyễn Huy Thiệp tự hỏi và tự trả lời.

Rồi ông cho rằng: “Khi ấy những bài thơ, những câu thơ hiện lên như những bổng lộc của thần linh. Loại hai là thơ của những người khởi nghĩa, của lửa, của những nhà cách mạng xã hội! “Bay thẳng tới muôn trùng Tiêu Hán / Phá vòng vây bạn với Kim Ô / Giang sơn khách diệc tri hồ” (Nguyễn Hữu Cầu). Khởi nghĩa với cả tình yêu, với đàn bà, với cái ác, cái tẻ nhạt, cái tầm thường, cái dung tục… với khá nhiều thứ - để biểu dương cái chí: “thi ngôn chí” (Tú Xương là thi ngôn chí: chí thanh cao, Nguyễn Bính cũng là thi ngôn chí: chí tình)”.

Nguyễn Huy Thiệp tiếp tục nhận xét: “Ngoài thơ loại một, loại hai là gì? Là loại ba: là phản thơ, là vi khuẩn, là mầm thơ, là “những tìm tòi” - đa phần viển vông, suy đồi, điếm đàng, đểu, say rượu, đa dâm, hạ lưu.Vượt lên trên là triết học, vượt lên thơ là triết học. Tư tưởng là thơ “bay lên”. Vậy Đồng Đức Bốn là ai? Đồng Đức Bốn là một nhà thơ loại hai theo cách phân loại như trên. Tiếc thay, anh không phải thiên thần, anh chỉ là một người khởi nghĩa. Anh là một tên nửa quê nửa tỉnh. Anh là một người có những tình cảm ngẩn ngơ, ngây ngất, dại khờ. Đồng Đức Bốn là một kẻ chí tình”, Nguyễn Huy Thiệp kết luận.

Và, phải chăng cho đến hôm nay, có thể ở thế giới bên kia, cố nhà thơ Đồng Đức Bốn đang ngồi hầu rượu nhà văn Nguyễn Huy Thiệp để nghe “Vua truyện ngắn” đàm đạo về thơ và những nhà thơ ở hạ giới.

Nguyễn Việt Chiến
.
.
.