Nhà thơ Bằng Việt: Thơ đương đại phải hướng tới đời sống xã hội
Cách đây nửa thế thế kỷ, Bằng Việt là gương mặt thơ tài năng của thế hệ các nhà thơ trưởng thành trong chiến tranh. Tập thơ “Hương cây, bếp lửa” in cùng nhà thơ Lưu Quang Vũ thời điểm ấy đã mở đầu cho hành trình thơ của những trí thức trẻ ở “hậu phương lớn” miền Bắc hướng về “tiền tuyến lớn” miền Nam.
Nhà thơ Bằng Việt (tên khai sinh Nguyễn Việt Bằng, sinh năm 1941, quê Chàng Sơn, Thạch Thất, Hà Tây) học luật tại Liên Xô (cũ), ông về nước làm biên tập văn học, rồi làm Tổng Biên tập Báo Người Hà Nội, ông nguyên là Chủ tịch Liên hiệp các Hội văn học nghệ thuật Hà Nội, nguyên Phó Chủ tịch Liên hiệp các Hội văn học nghệ thuật Việt Nam. Nhà thơ Bằng Việt đã in gần 20 tập thơ, thơ dịch và phê bình tiểu luận. Ông được trao nhiều giải thưởng văn học, giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật 2001, giải thưởng ASEAN 2003.
Đổi mới thơ từ hình thức đến nội dung không tách rời nhau
Độc giả yêu thơ cách đây nửa thế kỷ vẫn còn nhớ những câu thơ tài hoa của ông trong bài thơ "Trở lại trái tim mình": “Sông Hồng ơi dông bão chẳng thay màu/ Rùa thần thoại vẫn nhô lưng đội tháp/ Chùa Một Cột đổ trên đầu giặc Pháp/ Lại nở xòe trọn vẹn đóa hoa sen”. Đến hôm nay, cuộc chiến tranh giữ nước đã khép lại sau lưng chúng ta gần nửa thế kỷ cùng với thành tựu thi ca của thế hệ các ông ngày ấy. Tập mới nhất “Thơ Bằng Việt 1986-2016” (NXB Văn học, 2020) gồm 96 bài thơ viết trong thời kỳ 30 năm đất nước đổi mới có khá nhiều suy tư, trăn trở với cuộc sống mới, với con người hôm nay.
Trong một lần trao đổi thi ca với tôi, nhà thơ Bằng Việt trải lòng: “Có một điều, khi các độc giả thơ nhìn về lớp nhà thơ trưởng thành trong chiến tranh giữ nước, thì người ta hay nghĩ về những đóng góp của chúng tôi thời chiến tranh từ những năm 60 đến những năm 80 của thế kỷ XX. Sau những năm 1980 đã có dư luận nói rằng lớp nhà thơ thời chiến tranh đã hoàn thành nhiệm vụ rồi và có thể bây giờ phải nhường “trận địa” thơ cho các nhà thơ trẻ hơn, các nhà thơ đổi mới, cách tân của thời đại mới, cụ thể là những nhà thơ trưởng thành sau năm 1975.
Tôi nghĩ rằng thơ là một sự tiếp nối không ngưng nghỉ và liền mạch với nhau từ thơ chiến tranh sang thơ hòa bình, từ thơ chiến đấu sang thơ xây dựng, theo tôi nghĩ thì nó không có khoảng cách nào cả. Vì thế, tôi khẳng định lớp nhà thơ trưởng thành qua chiến tranh với độ tuổi lớn của mình, với những kinh nghiệm từng trải của mình vẫn có thể có những đóng góp xứng đáng trong thời đổi mới. Và, tôi nảy ra ý định tập hợp một loạt bài thơ của mình chỉ viết từ năm 1986 bắt đầu thời kỳ Đổi mới tới bây giờ là 30 năm thơ để khẳng định rằng các tác giả thời chiến tranh vẫn còn đủ sung sức để có thể đi tiếp chặng đường đổi mới với những đóng góp mới cho văn học đất nước”.
Bàn về việc đổi mới thi ca đương đại, tôi và nhà thơ Bằng Việt đều chung quan điểm, việc đổi mới trong thơ không phải chỉ là đổi mới về nội dung hay là hình thức tách rời nhau mà phải là sự đổi mới trên thực chất từ cách chọn đề tài, từ cách thể hiện đề tài, từ góc nhìn của tác giả, góc nhìn của nhân vật trữ tình trong thơ phải có những thay đổi. Còn nếu chúng ta chỉ chú trọng vào việc thay đổi về hình thức, về kỹ thuật thể hiện thôi thì sẽ bị lệch đi, tức là chúng ta sẽ bị rơi vào chủ nghĩa hình thức. Và, đổi mới thực chất phải là cách anh nhìn vào hiện thực như thế nào, anh lấy cái gì từ hiện thực để đưa vào thơ của anh, cách đưa nhân vật trữ tình vào thơ của anh thể hiện những suy nghĩ gì, cảm nghĩ gì phù hợp với suy nghĩ, quan tâm của người khác, của lớp trẻ hôm nay và đây chính là những điều mà thơ phải quan tâm đến.
“Trong 30 năm đổi mới nói chung của đất nước, tôi cũng rất muốn thơ Việt Nam, trong đó có thơ của thế hệ chúng tôi cũng phải có những đổi mới tương tự như vậy. Đấy là lý do mà tôi trình làng tập thơ 30 năm 1986-2016 của tôi”, Bằng Việt nhận xét. Tôi cũng cho rằng cái quan trọng nhất của thơ đổi mới, cách tân hôm nay không chỉ nằm ở phía đổi mới cấu trúc nghệ thuật và hình thức thể hiện của ngôn ngữ thơ mà điều quan trọng nhất để nhận biết các nhà thơ ở các thời đại khác nhau thế nào chính là cái nội dung đời sống trong thơ ở thời đại ấy được thể hiện trong một trường thẩm mỹ khác trước như thế nào.
Tình bạn thi ca giữa Bằng Việt và Lưu Quang Vũ
Cách đây hơn nửa thế kỷ, tập thơ đầu tiên “Hương cây, bếp lửa”, Bằng Việt in chung với Lưu Quang Vũ. Ông cho biết: “Có thể nói, những năm 1960, thế hệ chúng tôi còn rất trẻ chỉ trên dưới 20 tuổi thôi, sống với nhau rất giản dị và chân tình, tôi thường xuyên đến nhà Lưu Quang Vũ chơi ở 96 phố Huế, thời kỳ đó trong căn buồng rất nhỏ. Đầu tiên anh Vũ ở chung với gia đình, sau khi lấy người vợ đầu là nữ diễn viên điện ảnh Tố Uyên, rồi anh chia tay và lấy nhà thơ Xuân Quỳnh, anh ở riêng trong căn phòng chật chỉ khoảng 10 m2.
Các nhà thơ thời ấy sống rất chật vật, vất vả về vật chất nhưng lại tràn đầy lạc quan yêu đời, sống chính bằng tinh thần và tôi cho đấy cũng là một điểm đẹp của thời gian đó. Chúng tôi luôn gặp gỡ nhau và trong những buổi tối “trà dư tửu hậu” thường đọc thơ của mình và góp ý cho nhau về thơ. Tôi nhớ trong số bạn bè thân thiết hay gặp nhau lúc đó có Lưu Quang Vũ, tôi, chị Xuân Quỳnh và anh Vũ Quần Phương, thỉnh thoảng có các anh Nguyễn Xuân Thâm, Trúc Cương...
Đặc biệt, nhóm chúng tôi khá thân với nhà thơ lớp trước là anh Việt Phương (tác giả tập thơ "Cửa mở" nổi tiếng và là thư ký của Thủ tướng Phạm Văn Đồng). Việt Phương là người rất yêu thơ nên ông chủ động gặp gỡ và kết bạn với nhóm thơ chúng tôi. Chính sự gặp gỡ của các thế hệ thơ như thế đã tạo cho mỗi người sự chắt lọc, đổi mới, hòa quyện trong thơ”.
Bằng Việt với Lưu Quang Vũ có mối quan hệ thân tình như anh em trong nhà. Khi hai người định in tập thơ chung thì bác Lưu Quang Thuận (bố nhà thơ Lưu Quang Vũ) bảo: “Hai chúng mày in thơ thì để tao lo in cho. Hai thằng nên in một tập thơ chung vì đã gắn bó với nhau nhiều năm và thơ của hai thằng tao thấy có nhiều điểm tương đồng”. Thời đó, in thơ rất khó, nên hai người đồng ý in chung và bác Lưu Quang Thuận là người đặt tên cho tập thơ. Bác Thuận nói: “Trong tập thơ của Vũ có bài "Hương cây", trong thơ của Việt có bài "Bếp lửa" nên chắp hai bài thành tên tập thơ "Hương cây, bếp lửa””. Sau đó, bác Thuận đến nhờ nhạc sĩ, họa sĩ tài danh Văn Cao vẽ bìa cho tập thơ mặc dù hai người viết trẻ chưa có tên tuổi gì trong làng thơ lúc đó.
Nói về tập thơ “Bằng Việt 1986-2016”, tác giả nhận định: “Trong những năm gần đây, tôi nghĩ thơ càng ngày càng phải gần với đời sống thường ngày như có thời người ta cho rằng phải đưa cái chất đường phố, bụi bặm hằng ngày vào trong thơ chứ không phải thơ là cái gì đó tách riêng ra một khoảnh quá ư là thanh tĩnh, riêng biệt. Tôi cũng rất muốn làm điều ấy để thơ mình gần hơn với đời sống xã hội, như bài thơ "Xin ấn đền Trần" với những câu thơ sau: “Chẳng lẽ: Dân ta rất thích làm quan?/ Xe biển đỏ biển xanh về kín đền, xin ấn!/ Rách áo, tuột giày, hung hăng, bậm trợn/ Không ai nhìn ai kịp rõ mặt người/ (Còn may chưa giẫm bẹp đầu nhau/ Như các cuộc hành hương Hồi giáo!)/ Các vua Trần đánh giặc, rồi về đi tu,/ Thích đọc kinh, ưa thanh cao tĩnh mịch/ Nào có ai xui: Chỉ xin sớ rồi đóng ấn/ Mà đủ lăn lưng ăn bẫm lộc trời?”.
Trong tập thơ “Bằng Việt 1986-2016”, ở bài thơ “Thơ hay - có cần phải chết?”, dường như ông đã nhìn thấy sự hữu hạn của những bài thơ một thời được cho là hay nhưng đã không vượt qua được thời gian và có lẽ người làm thơ đừng nên nghĩ đến sự bất tử của thi ca khi cầm bút.“Maiacopxki giơ cao tấm hộ chiếu đỏ tươi/ Ngẩng đầu hiên ngang “Ta chính là Liên bang Xôviết”/ Câu thơ trác việt một thời, nhưng hôm nay phải chết/ Khi ngay cả Liên bang Xôviết không còn!/ Tố Hữu dịch bài thơ “Đợi anh về”/ Bài thơ được chuyền tay, suốt một thời bom rơi đạn nổ/ Cho tới lúc hàng vạn người xuất ngũ/ Người mất cũng mất rồi, người chờ đợi đã già đi/ Bài thơ kiên trung đầy khắc khoải, chia ly/ Đành thở phào ra đi khi làm xong nhiệm vụ”.
Theo Bằng Việt: “Có nhiều anh em của giới sáng tác, trong đó có nhà thơ thường huyễn hoặc, muốn thơ của mình phải sống mãi, phải bất tử, cứ ví mình như các đại thi hào Puskin, Nguyễn Du. Tôi nghĩ đó chỉ là những ảo tưởng, phi lý nên tôi mới viết thẳng ra là: Thơ hay cũng phải chết như thường, thơ hay có ích vào lúc nó sinh ra, khiến người ta thuộc và nhớ nó bởi vì người ta cần đến nó lúc ấy, còn khi làm xong nhiệm vụ, người ta không cần đến nó nữa thì nó cũng phải chết chứ làm sao sống mãi được”.