Thơ xuân Nguyễn Bính

Thứ Năm, 22/04/2010, 15:30
Dù là viết về tình yêu hay một đề tài nào khác, bao giờ Nguyễn Bính cũng tìm cách đưa được những chất liệu thiên nhiên vào sáng tác của mình. Chính trong "Lá thư về Bắc", làm lời một ai đó, ông đã nhận xét về đường đi nước bước của mình thế này: "Song le trường học thiên nhiên sẽ/ Đào luyện nhà thơ nên một người". Mà, như bạn đọc biết rồi, "trường học thiên nhiên" của Nguyễn Bính thường được mở ở thôn quê, thành ra khi viết về xuân, thơ ông đầy hương sắc.

Tính ra - thơ xuân của Nguyễn Bính nhiều lắm. Chỉ riêng trong "Tuyển tập Nguyễn Bính" (NXB Văn học, 1986) đã có đến gần hai chục bài (mà Tuyển tập này mới chỉ lọc lựa chừng 1 phần 10 những gì ông đã viết). Chúng ta có thể bắt gặp ở đó những bài thơ khá phổ biến của Nguyễn Bính như: "Mưa xuân", "Cô lái đò", "Chân quê", "Xuân về", "Mùa xuân xanh", "Xuân tha hương"...

Mở đầu bài "Thơ xuân" là một không khí vui tươi, hoạt bát:

Đây cả mùa xuân đã đến rồi
Từng nhà mở cửa đón vui tươi
Từng cô em bé so màu áo
Đôi má hồng lên nhí nhảnh cười

Dù sao, nét chính của khổ thơ trên vẫn là mùa xuân với các em nhỏ. Bài "Xuân về" đã phác ra quang cảnh mùa xuân - thiếu nữ thật duyên dáng, khơi gợi:

Đã thấy xuân về với gió đông
Với trên màu má gái chưa chồng
Bên hiên hàng xóm cô hàng xóm
Ngước mắt nhìn giời đôi mắt trong

Năm 1938, trong mục "Tin thơ" (của báo Ngày nay) với chủ đề thơ viết ngày xuân, Thế Lữ đã trích biểu dương bốn câu thơ này. Ông viết: "Vẻ cợt đùa thực là tài tình ở những tiếng nhắc lại ỡm ờ nhưng không ngang chướng". Thật ra, nhắc lại để mà... nhắc lại thế thôi - đây là 4 câu có lẽ trong số chúng ta, nhiều người thuộc.

Bài "Xuân tha hương" tác giả viết thay bức thư gửi chị, trong đó có 4 câu (2 câu cuối dễ gợi ta nhớ tới khổ thơ vừa trích dẫn) nghe thật cảm động:

Tết này chưa chắc em về được
Em gửi về đây một tấm lòng
Xuân sang hoa nụ rồi hoa nở
Chị vẫn môi son, vẫn má hồng?

Bài "Cô lái đò" lừng danh mở đầu bằng một "xuân mong nhớ":

Xuân đã đem mong nhớ trở về
Lòng cô gái ở bến sông kia

 và:

Cô hồi tưởng lại ba xuân trước
Trên bến cùng ai đã nặng thề.

Bài "Sao chẳng về đây" lại tạo dựng một quang cảnh "xuân - chờ đợi" với sự hối thúc của tác giả:

Xuân đã sang rồi em có hay
Tình xuân chan chứa, ý xuân đầy
Kinh kỳ bụi quá xuân không đến
Sao chẳng về đây, chẳng ở đây

Có sự khẩn cầu đến thành van vỉ ấy là vì nhà thơ của chúng ta cảm thấy cô đơn trống vắng quá. Ông vừa làm cuộc chạy trốn khỏi nơi đô hội mà cuộc sống bạc tiền phủ lấp tình người.

Đó là những vần thơ Nguyễn Bính sáng tác trước Cách mạng tháng Tám.

Sau ngày Cách mạng thành công, Nguyễn Bính vẫn nối tiếp nguồn mạch thơ xuân. Những nét vui đã được "chêm" vào nhiều hơn. Nếu trước kia trong "Đêm cuối cùng", ông viết về hội làng với sự băn khoăn:

Hội làng còn một đêm nay
Gặp em còn một lần này nữa thôi
thì trong "Tiếng trống đêm xuân":
Hội làng nô nức gái trai
Mong đêm quên sáng cho dài ngày xuân
Đường thôn hoa bưởi trắng ngần

Giống nhau mà vẫn có gì, nhất là trong giọng thơ - khác nhau chứ?

Cũng vậy, trong "Mưa xuân" ngày trước, người ta thấy cả cái nặng, cái lạnh của nó, thì sau Thủ đô giải phóng, trong "Mưa xuân" thời mới, người ta thấy nó tơ mảnh, ấm áp, có sức khơi gợi sum vầy lạ:

Nào ai nhìn rõ thấy mưa xuân
Tơ nhện vừa giăng sợi trắng ngần
Bươm bướm cứ bay không ướt cánh
Người đi trảy hội tóc phơi trần

Bài thơ "Xuân nhớ miền Nam" có 4 câu đăng đối khá chặt chẽ, riêng hai câu cuối đã phổ biến đến mức không dịp tết nào không được nhắc đến, mặc dù "sức sống dân gian" của nó đã khiến người ta nhiều khi quên mất cả tên tác giả.

Bốn đường tàu chạy mưa xuân ấm
Triệu lá cờ bay gió tết lành
Thịt mỡ dưa hành câu đối đỏ
Cây nêu, tràng pháo bánh chưng xanh

Thật ra, dẫn như vậy tôi mới chỉ dẫn được một chút gọi là hương sắc trong thơ xuân Nguyễn Bính. Mảng thơ này của ông rất phong phú. Sự cởi mở của tâm hồn hình như đã khiến cho mỗi độ xuân về, ông đều động bút thành thơ. Vả chăng, còn gì gắn bó mật thiết, bí ẩn nữa kia. Ông mất đúng vào ngày 30 tết (năm Ất Tỵ 1966) - không kịp đón xuân mới. Nói theo cách của Trần Lê Văn - ông ra đi "để lại mùa xuân nguyên vẹn cho người"

Nguyễn Trường Văn
.
.
.