Nhà thơ Thâm Tâm: Neo lại với đời bằng bài thơ tống biệt

Thứ Hai, 26/09/2011, 08:00
"Thế giới thơ rất dân chủ, hay nói đúng hơn có lối công bằng kỳ quặc. Người có một câu hay được nhắc đến như người có vạn bài, miễn rằng câu ấy đã đến được xứ thơ" - Nhận xét trên của Chế Lan Viên được nảy ra khi ông nghĩ về đời thơ Bích Khê.

Cũng đúng với trường hợp Thâm Tâm. Viết ít và mất quá sớm, nhưng chỉ với một "Tống biệt hành" thôi đã đủ để tên tuổi Thâm Tâm mãi mãi neo lại với đời. Nói theo cách của John Don "Nếu sóng cuốn xuống biển một mỏm đá ven bờ thì châu Âu sẽ bé đi", phong trào Thơ Mới dù đã đem đến cho độc giả nhiều bài thơ hay, song cũng sẽ khiến ta có cảm giác trống vắng nếu như thiếu đi một "Tống biệt hành" của Thâm Tâm. Đó là bài thơ có nhiều điểm độc đáo cả về nội dung và hình thức.

Đưa người, ta không đưa qua sông
Sao có tiếng sóng ở trong lòng?
Bóng chiều không thắm, không vàng vọt
Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong? 

Đưa người, ta chỉ đưa người ấy
Một giã gia đình, một dửng dưng…
- Ly khách! Ly khách! Con đường nhỏ
Chí nhớn chưa về bàn tay không
Thì không bao giờ nói trở lại!
Ba năm, mẹ già cũng đừng mong. 

Ta biết người buồn chiều hôm trước
Bây giờ mùa hạ sen nở nốt
Một chị, hai chị cũng như sen
Khuyên nốt em trai dòng lệ sót. 

Ta biết người buồn sáng hôm nay:
Giời chưa mùa thu, tươi lắm thay
Em nhỏ ngây thơ đôi mắt biếc
Gói tròn thương tiếc chiếc khăn tay… 

Người đi? Ừ nhỉ, người đi thực!
Mẹ thà coi như chiếc lá bay
Chị thà coi như là hạt bụi
Em thà coi như hơi rượu say

Bài thơ được viết theo thể hành - một thể thơ cổ phong có đặc điểm là khá tự do phóng túng, vốn thịnh hành ở thời Hán Ngụy (Trung Quốc). Thể thơ này đến thời Thơ Mới ít được dùng, và cũng không mấy tác giả thành công. Vì lẽ ấy mà ngoài yếu tố hay, "Tống biệt hành" còn có một vị trí riêng.

Nếu xét ngữ nghĩa từng câu thì không có gì thật khó hiểu, nhưng trên tổng thể cả bài thì quả là… phức tạp. Đến nay, mặc dù bài thơ được nhiều người phân tích, bình luận, nhưng xem ra các ý kiến đối chọi nhau chan chát. Chỉ riêng việc ra đi của nhân vật "người ấy" (Đưa người ta chỉ đưa người ấy) mà mỗi tác giả một cách hiểu. Giáo sư Nguyễn Đình Chú cho rằng: "Người ra đi ở đây chính là người chiến sĩ cách mạng, giã nhà lên đường đi chiến đấu (có thể là lên chiến khu, khi đó đã thành lập ở Việt Bắc và trở thành một nơi bí mật và thiêng liêng, hấp dẫn với mọi người thời ấy)" (sách "Văn 11" dành cho giáo viên, NXB Giáo dục, 1991). Nhà thơ Vũ Quần Phương lại hiểu: "Cái chí nhớn, một đi không trở lại ở trên, nó chẳng có gì là đáng tự hào, nó là việc bất đắc dĩ. Ở lại thì bế tắc, nhưng ra đi chưa thấy gì là tươi sáng, nó tự nhủ bằng cái vẻ bi hùng của Kinh Kha bên sông Dịch thì cũng chẳng lừa được chính mình" (sách "Thơ với lời bình", NXB Giáo dục, 1990).

Nhà phê bình văn học Trần Đình Sử, mặc dù không tán đồng với những ý kiến trên, cho rằng chúng "thiếu sức thuyết phục, nặng về suy diễn", song ở cả hai bài viết in trong tập "Đọc văn học văn" (NXB Giáo dục, 2001), cũng chỉ dám khẳng định người ra đi là "một con người quyết dứt bỏ tình riêng ra đi vì chí lớn". Còn "chí lớn" ấy cụ thể là gì, được thể hiện như thế nào thì không cắt nghĩa được. Qua đó mới thấy, "Tống biệt hành" thực sự là bài thơ phức tạp (nói như Trần Đình Sử là "không dễ giảng"). Người viết bài này từng có một ý nghĩ vui: Nếu coi đây là bài thơ viết về cuộc tiễn đưa một chiến sĩ cách mạng giã nhà lên chiến khu (như ý kiến của Giáo sư Nguyễn Đình Chú) thì tỉ dụ bài thơ có rơi vào tay mật thám, chịu chết chúng cũng không xác định được hành tung của nhân vật. Chẳng hạn, đọc mấy câu:

Đưa người, ta không đưa qua sông
Sao có tiếng sóng ở trong lòng?
Bóng chiều không thắm, không vàng vọt
Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong?

làm sao xác định được cuộc tiễn đưa ấy diễn ra ở đâu, tại nhà ga, bến tàu nào? Đọc những câu: "Đưa người, ta chỉ đưa người ấy/ Một giã gia đình, một dửng dưng" cũng chẳng thể xác định được "người ấy" là ai? Đặc biệt, với câu thơ "Chí nhớn chưa về bàn tay không" - không thể khép nhân vật vào tội danh nào được. Đọc mấy câu "Một chị, hai chị cũng như sen/ Khuyên nốt em trai dòng lệ sót" và "Em nhỏ ngây thơ đôi mắt biếc/ Gói tròn thương tiếc chiếc khăn tay", cũng khó xác định được chính xác thân nhân của con người này.

Một nhà thơ tinh nhạy ngôn ngữ như Vũ Quần Phương, đọc mấy câu thơ trên còn cho rằng "người ấy" có "mẹ già, một chị, hai chị và đứa em gái" (không rõ mấy chị nữa?), trong khi tác giả Huệ Thu, ở một bài in trong tập "Sương chiều thu đọng" (xuất bản tại Mỹ năm 1991) lại hiểu nhân vật "Em nhỏ ngây thơ đôi mắt biếc" là… "thằng em út". Còn nhà phê bình văn học Trần Đình Sử thì cẩn thận gọi là "Mẹ già, chị gái, em thơ" (không dám khẳng định là em trai hay em gái). Rõ ràng, bài thơ có những điểm không dễ xác định. Có cảm tưởng tác giả làm thơ mà như nói với riêng mình. Chuyện chỉ cần nói tắt là đủ hiểu, trong khi người bên ngoài phải khó nhọc lắm mới nắm bắt được đúng ý người nói? Không chỉ ở mấy đoạn trích dẫn trên mà ở khổ thơ kết, bên cạnh việc có người cho rằng đó là ý nghĩ của "người đưa tiễn" thì không ít người lại hiểu đó là lời tâm sự cùng gia đình của "người ra đi". Quả là hiếm có bài thơ nổi tiếng nào mà rắc rối, mà tạo nên nhiều cách hiểu như "Tống biệt hành" của Thâm Tâm.

Nhưng nói vậy không có nghĩa là ở "Tống biệt hành", mọi sự đều…rối beng, muốn hiểu thế nào cũng được. Nhà phê bình văn học Trần Đình Sử đưa ra một lời khuyên xác đáng: "Đối với bài thơ như bài này, theo chúng tôi, trước hết nên tìm hiểu cấu tứ bài thơ để hiểu nó nguyên phiến, toàn vẹn. Còn câu chữ bài thơ, nói như Triệu Chấp Tín đời Thanh, chỉ là cái râu, cái vẩy của con rồng bay hiện ra ngoài đám mây mà thôi, không thể đầy đủ được". Theo ông, "Bài thơ này là lời của người đưa tiễn nói về người ra đi", "người tiễn rất hiểu người đi và chỉ nhờ sự bộc lộ cảm xúc của người tiễn mà hình ảnh của người đi hiện lên mạnh mẽ, cao cả, một con người quyết dứt bỏ tình riêng ra đi vì chí lớn".

Về cơ bản, tôi cho độc giả cần hiểu như vậy và cứ trên cái "sườn" ấy, hẳn sẽ thẩm thấu được tương đối đủ đầy ý nghĩa nhân văn của bài thơ. Tiếc là, tác giả nói thì nói vậy nhưng lại không thực hiện được triệt để điều ông vừa khuyên nhủ bạn đọc: Trong hai bài viết dài tới 5-6 ngàn chữ của mình (mà chúng tôi đã nhắc tới ở đầu bài viết), không ít chỗ ông xông vào cắt nghĩa, giải thích tỉ mỉ từng câu từng chữ, khiến cho ý nghĩa của bài thơ phần nào bị nhòe đi, chệch ra ngoài cái hướng chung mà ông từng nêu.     

 "Tống biệt hành" là một bài thơ hay. Về nhạc tính, có thể nói đây là bài thơ có cách phối nhạc rất đặc biệt, các chữ va nhau nghe như chuông vàng, khánh bạc. Để tạo được hiệu quả này, tác giả sử dụng nhiều điệp ngữ, điệp vần. Còn về hình ảnh, tuy nói cuộc chia tay không diễn ra ở một nơi có sông có nước, ở một thời điểm có bóng hoàng hôn, nhưng những hình ảnh ấy vẫn tràn ngập không gian thơ. Cộng với những hình ảnh rất giàu biểu cảm như sen cuối hạ, trời chưa vào thu, hình ảnh chiếc khăn tay, hạt bụi, người đi, lá bay...  , bài thơ đã tạo nên được những dư ba trong lòng người. Ngoài việc mở đầu bằng những câu “rắn rỏi, gân guốc” (chữ của Hoài Thanh) rất hợp với nội dung cần thể hiện, bài thơ còn chinh phục người đọc bằng những câu có giai điệu "ngọt xớt", kiểu như:

Ta biết người buồn sáng hôm nay:
Giời chưa mùa thu tươi lắm thay

hoặc:

Người đi? Ừ nhỉ, người đi thực
Mẹ thà coi như chiếc lá bay
Chị thà coi như là hạt bụi
Em thà coi như hơi rượu say

Rất mềm mại mà chuyển tải được bao tình ý. Có thể khẳng định, ngoài cái khoáng đạt của nội dung, "Tống biệt hành" còn thực sự lôi cuốn người đọc bởi một thứ nhạc tính tung tẩy, sảng khoái. Và, một điều thật đáng nói, trong phong trào Thơ Mới, đã có những bài hay mà ý tứ và cấu trúc giai điệu tương đối giống nhau, song ở cả hai phương diện nói trên, không có bài nào "na ná" như "Tống biệt hành" của Thâm Tâm.

Cuộc đời Thâm Tâm kết thúc ở tuổi 33 và sự nghiệp thi ca của ông chỉ gói lại trong khoảng hai chục bài, đa phần đều được ông viết vào giai đoạn trước Cách mạng. Tác giả Bùi Văn Trọng Cường đã nhận xét đúng: "Gam màu chủ đạo của hồn thơ Thâm Tâm là trầm và lạnh". Thâm Tâm rất có sở trường trong việc thể hiện tâm thế "bất đắc chí", cũng như "khẩu khí" của mình:

Bọn ta một lớp lìa nhà
Cháo hàng cơm chợ, ngồi ca lúa đồng

(bài "Tráng ca")

Mấy lần thù trả thân không chết
Khắp xóm giang hồ khét họ tên
Vợ con thí tất cho thiên hạ
Yêu rất ban ngày, ghét rất đêm

(bài "Can trường hành")

Nhưng dẫu sao đó cũng chỉ là những câu thơ đơn lẻ, nằm lẫn trong những bài thơ tản mát về ý tưởng, rời rạc về giai điệu. Không bài nào tầm vóc được như "Tống biệt hành". Bởi vậy, đọc những bài này, dẫu biết chúng được viết sau "Tống biệt hành", ta vẫn có cảm giác đó là chỉ những nét thử bút của thi nhân mà thôi…

                                                12/9/2011

P.K.
.
.
.