NSND Xuân Hoạch: Tình nhị hồ vẫn yêu âm xưa

Thứ Năm, 26/04/2018, 09:13
Tôi đã nghe tiếng đàn Nguyệt của NSND Xuân Hoạch từ giữa những năm 70 của thế kỷ trước, trên Đài Tiếng nói Việt Nam. Đó là suối âm thanh giòn giã vui tươi và say đắm lòng người. Sau này lại được nghe ông kéo nhị Hồ, hát xẩm ở sân khấu ngoài trời tại chợ Đồng Xuân, tôi càng ngỡ ngàng. Một cảm giác lạ lùng khi nghe tiếng nỉ non, trầm buồn từ tiếng nhị Hồ trên tay anh. Mộng mị làm sao...


"Cung thương lầu bậc ngũ âm"

Tôi muốn mượn câu thơ Kiều để nói về tài năng của NSND Xuân Hoạch, bởi lẽ ông không những thành thạo đàn Nguyệt, bộ môn được đào tạo chính thức tại Trường Đại học Âm nhạc, mà ông còn chơi giỏi cả một số cây đàn khác như Nhị, Hồ, Bầu, Đáy, Song Loan.

Đặc biệt riêng đàn Bầu hay đàn Nhị thì ông không hề được học một giờ nào trên lớp, chủ yếu tự học theo bạn và mày mò tìm hiểu. Với cây đàn Đáy thì lại có khác đôi chút, đúng với nghĩa không thầy đố mày làm nên, ông phải tìm đến nghệ nhân lừng danh Đinh Khắc Ban học hỏi.

Chơi đàn Đáy trong hát Ca trù đòi hỏi ngón nghề điêu luyện để có thế dẫn dụ ca nương mỗi khắc một đắm đuối hơn, đổ hột giọng ca thật nhuyễn cùng với lá phách buông đến độ ngây ngất lòng người. Vậy đó, khi đến diện kiến nghệ nhân Đinh Khắc Ban và nghe ông đàn, Xuân Hoạch bị cuốn hút và thao thức trong đêm vì tiếng đàn bí ẩn ấy.

NSND Xuân Hoạch với cây đàn Đáy cổ.

Đó là những ngày tháng tập luyện đến chảy máu tay rồi mới đến độ bén tiếng đàn, theo đúng như ông thầy nhận xét. Đúng là âm thanh khi bén tiếng đàn chỉ là vỡ vạc ban đầu, sau đó trò được cầm đàn học bài bản, theo thầy trong canh hát. Thời gian trôi đi mươi năm, nghệ sĩ Xuân Hoạch được coi là người chân truyền cho tiếng đàn Đáy của ông thầy, nghệ nhân Đinh Khắc Ban. Ông đã được đệm cho nghệ nhân ca trù bậc thầy Kim Đức hát.

Ông còn nhớ có lần bà Kim Đức, qua tiếng đàn của mình, đã bay bổng thăng hoa hát làm lay động người nghe, với những âm sắc "đổ con kiến" như hát châu rơi trên mâm đồng. Sau đó bà ví von khen ngón đàn Xuân Hoạch rằng: "Gần như suối đổ trên vách núi xuống. Xa như tiếng hạc dội từ trên cao". Sau này khi nghệ nhân Đinh Khắc Ban "rửa tay gác kiếm" đã trao cây đàn gắn bó với cuộc rong chơi nửa thế kỷ của mình cho người kế vị chân truyền Xuân Hoạch.

Với tài năng đặc biệt, nghệ sĩ Xuân Hoạch đã cùng Nhà hát Ca múa nhạc Dân tộc Việt Nam đi khắp đó đây biểu diễn với cây đàn Nguyệt của mình. Dường như ông đã đi khắp đất nước, gieo những âm thanh đẹp tựa suối trong và cuộn trào như những lớp sóng biển tung bở cát trắng. Ông đã từng đoạt nhiều Huy chương Vàng (HCV) trong các kỳ hội diễn chuyên nghiệp toàn quốc và đã được phong danh hiệu Nghệ sĩ Ưu tú năm 1997.

Có lần ông còn tự sáng tác bản "Nhớ vùng quan họ" cho đàn Nguyệt để đi thi Hội diễn toàn quốc ở Cần Thơ. Bản nhạc này đã ghi dấu ấn kỷ niệm với HCV ngay tại quê hương sông nước miền Tây, trong phong trào đờn ca tài tử rầm rộ hàng trăm năm qua. Sau đó với cây đàn Đáy, ông cũng đoạt HCV vàng khi chơi bản độc tấu rất lạ tại cuộc thi ở Nhà hát lớn Hà Nội, vào năm 2005. Đến năm 2007, ông đã vinh dự được Nhà nước trao danh hiệu Nghệ sĩ Nhân dân, ghi nhận công sức cống hiến gần nửa thế kỷ qua cho nền âm nhạc truyền thống của dân tộc.

Tiếng đàn của ông đã "bén ngọt" thực sự như cố nghệ nhân Đinh Khắc Ban khi tin tưởng trao cây đàn cho ông. Hiện trong tay ông còn có cây đàn Đáy cổ do nghệ nhân Quách Thị Hồ trao lại. Đó là những cổ cầm, báu vật của tiền nhân đi trước. Họ hy vọng, bắt đầu từ ngôi nhà này, tiếng đàn của Xuân Hoạch sẽ được truyền đi, và trao lại cho thế hệ sau tiếp nối. 

Tiếng tơ tiếng trúc hồn quê

Khi đến ngôi nhà NSND Xuân Hoạch ở ngõ Ao Phủ, kế gần bên là một căn phòng hòa nhạc được dựng bằng tranh tre nứa lá, tôi thấy ông đang hì hụi cùng vợ se những sợi tơ để làm dây đàn. Ông cười đúng như hôm đi hát xẩm đêm ở chợ Đồng Xuân, xởi lởi chân tình. Tôi thắc mắc hỏi sao không đi mua dây tơ công nghiệp về làm cho nó nhanh, đỡ phải nhọc công.

Ông thẽ thọt nói, rằng mình phải tự se tơ thành dây đàn mới để lại phần hồn trong nhịp phách, các cụ nói vậy. Thì ra cái âm sắc ám ảnh và ma mị của ông trên cây đàn Hồ là đây. Ông khoe một cây đàn mới làm từ vỏ quả bầu và một cây trúc làm cần đàn cho tôi xem. Xoay xoay cây đàn tre trúc cho tôi ngắm những họa tiết mà ông bỏ công đẽo gọt, khi lên dây đàn ông mới nói, tiếng dây tơ lạ lắm, nó như tiếng người ấy ông ạ.

Thế là anh kéo vĩ lấy tiếng trên cây đàn nhị Hồ, và đẩy một cung nhạc lướt nhẹ, rồi hát. Đó là âm sắc nhị hồ hợp với giọng hát trung trầm của ông. Giọng ông hơi khàn nhưng sao lại ấm áp mơ màng đến thế. Nó trôi trong tiếng nhị hồ. Tôi bỗng như nghe thấy âm vang tự trong lòng, khi thương cho nàng Kiều chơi đàn: "Lọt tai nghe suốt năm cung/ Tiếng nào là chẳng não nùng xôn xao".

Đó chỉ là những cung nhạc đọng lại ban đầu khi ông cho tôi nghe để biết thế nào là tiếng đàn dây tơ. Nó khác hẳn âm sắc của dây ni lông hay dây kim loại. Âm của dây tơ không ngân vang mà nó như tiếng người, khoan nhặt bày tỏ nỗi lòng.

NSND Xuân Hoạch biểu diễn trên sân khấu.

Xưa các cụ chỉ chơi đàn dây tơ nên: "Tiếng đàn tiếng của tơ lòng. Tình ta khắc khoải đục trong mơ màng. Tiếng đàn tơ không mênh mang. Nỉ non, xót đắng bàng hoàng con tim". Nghệ sĩ Xuân Hoạch kể mình đã mất mấy năm trời để đi tìm lại tiếng dây tơ của ông cha xưa. Và, cũng đã mươi năm nay, anh chỉ chơi đàn dây tơ và dạy cho học trò hiểu về âm sắc, chứa đựng hồn người của nó. Ông truyền lại cho những nghệ sĩ trẻ với niềm hứng thú: "Mai sau dù có bao giờ. Đốt lò hương cũ se tơ phím này". Tôi ngồi nghe nghệ sĩ kể chuyện về dây đàn tơ như được đắm chìm vào âm thanh kỷ ảo của nó.

NSND Xuân Hoạch đưa cho tôi xem con tơ (cuộn tơ) mua được từ làng tơ lụa Nha Xá, tận Hà Nam để làm dây đàn như thế nào. Nói rồi ông lắp một dây tơ vừa làm xong lên chiếc đàn Đáy của nghệ nhân Đinh Khắc Ban để lại, dạo một khúc đàn để cho tôi thấm được cái âm trong đục của nó. Ông bất ngờ cất tiếng hát bài "Hồng hồng tuyết tuyết". Nét nhấn nhá của tơ lòng hiện rõ rệt, tôi cảm thấy tiếng đàn phụ họa cùng giọng ca, đẩy tâm hồn của người nghệ sĩ bay lên như hoa như tuyết, dào dạt cảm xúc.

Đúng là: "Trong như tiếng hạc bay qua. Đục như nước suối mới sa nửa vời. Tiếng khoan như gió thoảng ngoài. Tiếng mau sầm sập như trời đổ mưa". Chắc hẳn ai cũng nghĩ đại thi hào Nguyễn Du đã nói một cách chuẩn mực về âm sắc của dây đàn tơ. Trên tường nhà ông có tới chục chiếc đàn các loại đều lắp dây tơ do vợ chồng ông cùng làm. Nhiều người đã đến đặt ông làm và chỉnh âm. Dan díu với lụa tơ quả là con đường đưa âm thanh trở về với chính nó, xứ sở thiên đường âm nhạc về với cõi người.

Ông hát xẩm mơ

Nói đến dây đàn tơ là chạm đến hồn cốt một đời đeo đuổi của NSND Xuân Hoạch. Ngay cả đến những chuyên gia Trung Quốc có lần sang đây, khi nghe Xuân Hoạch chơi nhị hồ bỗng thốt lên rằng, đó chính âm nhạc Việt, thật độc đáo. Tiếng đàn nhị hồ nhẹ như nắng xuân vậy, ấm và dịu lắng trong lòng người nghe. Vậy mà hiện nay người ta vẫn chưa hồ hởi thu nạp thứ dây tơ ấy. Họ tìm đến ni lông hay dây kim loại cho bền và ngân vang, nhưng lại ồn ã vô cảm. Âm thanh lắng đọng của cha ông vẫn còn bị lãng quên.

Một đời lần hồi tìm kiếm, NSND Xuân Hoạch phô diễn tiếng đàn tơ làm nức lòng người, với những bài xẩm như "Mục hạ vô nhân", "Trăng sáng vườn chè". "Lỡ bước sang ngang" hay như "Tre xanh", "Về làng"…Nghe du dương đến thế. Chính nghệ sĩ Văn Thao đã từng nói, chơi đàn dây tơ rất khó, nếu không chăm chút tinh luyện tìm lại những âm sắc đồng quê xưa.

Còn NSND Xuân Hoạch luôn luôn nghĩ để mất đi những âm thanh của ông cha là có tội. Ông mơ rằng, đến một ngày nào đó mình sẽ hòa tấu trong một dàn nhạc dây dân tộc, chơi toàn bằng dây tơ. Ngày ấy không xa. Bởi lẽ sức quyến rũ của âm thanh dây tơ luôn chờ đợi ở đâu đó mà người nghệ sĩ sẽ tìm về.

Vương Tâm
.
.
.