"Mùng" chứ không phải "màn"
Cuối tháng 10/1965, với cương vị Phó ban Tuyên huấn Trung ương Đảng, nhà thơ Tố Hữu đã vào Quảng Bình để tìm hiểu, định hướng tuyên truyền về những nhân tố mới trong lao động, chiến đấu của quân và dân trong giai đoạn lịch sử mới ở vùng đất này.
Ngày 4/11/1965, sau buổi chiều gặp gỡ, trò chuyện với mẹ Nguyễn Thị Suốt, tối đó, dưới nhà hầm Tỉnh ủy Quảng Bình, nhà thơ Tố Hữu đã hoàn thành bài thơ "Mẹ Suốt", theo thể lục bát.
Người đầu tiên được tác giả đọc cho nghe và chép tặng "đứa con tinh thần" của mình là Bí thư Tỉnh ủy Nguyễn Tư Thoan. Sau này, nghệ sĩ Châu Loan đã thực hiện bài thơ dưới làn điệu hát vè Trị Thiên, gây xúc động lòng người.
Bài thơ được đăng đầu tiên ở báo Nhân dân sau đó mấy hôm. Lũ học trò cấp 3 chúng tôi cùng thôn xóm với Mẹ Suốt anh hùng, lúc đó vô cùng sung sướng, hãnh diện về bà, con người bình thường hàng ngày chèo đò chở chúng tôi sang sông Nhật Lệ để đến trường, nay được thành thơ, lên báo, mà tác giả là "Con chim đầu đàn của thơ ca cách mạng Việt Nam".
Thế là chúng tôi chuyền cho nhau chép vào sổ tay và học thuộc lòng bài thơ "Mẹ Suốt" với tất cả lòng mê say, thú vị.
Trước khi vào đại học, tôi là xã viên HTX Thống Nhất - Bảo Ninh, đi "xuất quân" (tức "đi tìm bãi cá" ), đánh cá cùng thuyền, cùng đội với ông Trần Bạo, chồng mẹ Suốt . Vì thế, bài thơ "Mẹ Suốt" càng gắn chặt với tôi.
Nhưng mấy năm sau, khi trở thành giáo viên giảng dạy văn học ở trường cấp 3, đọc đến hai câu thơ:
Coi chừng sóng lớn, gió to
Màn xanh đây mụ, đắp cho kín mình
In trong sách giáo khoa và nhiều tuyển tập khác, tôi phải chau mày lại, vì có cảm tưởng như đang ăn miếng ngon, bỗng nhai phải một hòn sạn.
Trong bài thơ "Mẹ Suốt", thực hiện tự sự chen trữ tình, nên Tố Hữu đã sử dụng một loạt từ địa phương Quảng Bình để diễn tả lời nói chân chất, dung dị của nhân vật trong bài thơ của mình, như các từ "tui", "chi", "rứa", "cớ răng"…
Và riêng câu thơ trích dẫn ở trên, chúng tôi đã ghi lại từ báo Nhân dân số ra những ngày đầu tháng 4/1965 là:
Coi chừng sóng lớn, gió to
Mùng xanh đây mụ, đắp cho kín mình
Đây là hai câu thơ tác giả ghi lại câu thoại của cụ Trần Bạo, chồng mẹ Suốt, khi trao "tấm vải ngụy trang" cho mẹ để mẹ khoác lên lưng mỗi lần lên bến xuống thuyền.
Xin nói đôi chút về "tấm vải ngụy trang" này.
Ở Quảng Bình lúc đó có trào lưu: Ban ngày, ai ra đường cũng phải ngụy trang để tránh máy bay khỏi phát hiện. Áo trắng, áo có màu sáng, không được mặc đã đành, nón đội cũng phải sơn đen, sơn xanh hoặc ít ra có tấm vải sẫm, trùm kín lên đó.
Làm gì có tấm vải dù xanh rằn ri như các cán bộ quân đội. Thế là người ta phải lấy vải màn nhuộm xanh làm tấm ngụy trang khoác lên mình khi ra đường, hoặc tham gia chiến đấu.
Một buổi trưa động biển, tôi đang say sưa đọc một cuốn sách trong mái lều bên bờ biển trong đội đánh cá "xuất quân", cụ Trần Bạo đến bên hỏi nhỏ:
- Mần răng để có mực màu xanh lá cây?
Tôi mách cho cụ:
- Giã nhỏ thuốc ký ninh vàng, trộn vào mực xanh là có ngay, cụ ạ!
Thế là cụ tỉ mẩn ngồi cắt chiếc màn muỗi bị rách ra nhiều miếng và làm theo sự hướng dẫn của tôi. Mấy hôm sau cụ đưa những "tấm vải ngụy trang" lên nhà và trao cho mẹ Suốt. Tình thương vợ, cùng "chia lửa" với vợ của cụ thể hiện bằng những việc làm nho nhỏ như thế.
Người Bình Trị Thiên chúng tôi, tiếng "màn" thường gọi là "mùng" (nằm màn gọi là nằm mùng). Và "bà" gọi là "mụ". Cho nên trong bài thơ "Mẹ Suốt", tác giả đã viết:
Coi chừng sóng lớn, gió to
Mùng xanh đây mụ, đắp cho kín mình
Chúng tôi đã thuộc lòng câu thơ, bài thơ từ thuở nhỏ, khi được chép ra từ báo Nhân dân, nên nhớ như in. Chuyện chuyển đổi "mùng" sang "màn" là cái lỗi của các nhà làm sách sau đó.
Năm 1990, trong một lần nằm viện cùng khoa tại Bệnh viện Việt Nam - Cu Ba (Đồng Hới) với cố Bí thư Tỉnh ủy Quảng Bình Nguyễn Tư Thoan, tôi đã đem câu chuyện "mùng", "màn" ra kể, ông ngạc nhiên lắm. Lập tức, ông đưa bài thơ mà nhà thơ Tố Hữu chép tay tặng ông tối ngày 4/11/1965 ra và nói: "Mùng xanh, đâu có phải màn xanh".
Bài thơ "Mẹ Suốt" ra đời đã 43 năm. Chép lại chuyện này, người viết mong rằng "Châu về Hợp phố". Chữ "màn" phải được thay lại bằng chữ "mùng" cho đúng nguyên bản của bài thơ
