Ngày 4/5/2005. 5.15 AM
Hiền Trâm và Hồ Nam thân mến
Đây đúng là một chuyện cổ tích. Hàng ngày tôi làm nhiệm vụ luật sư tại tòa nhưng từ thứ hai vừa rồi tôi không thể nghĩ đến điều gì khác ngoài Thùy Trâm. Tôi phải lặng lẽ nghĩ bởi vì mặc dù tìm thấy gia đình Đặng của tôi là một niềm vui to lớn nhưng trong tim tôi có cả nỗi buồn trĩu nặng vì Thùy Trâm đã mất đi. Và vì tôi đã bắt đầu già nên nước mắt rất dễ tuôn trào và điều tôi khóc ở tòa là rất không thích hợp. Vì thế suốt ngày tôi lặng lẽ nghĩ về Thùy Trâm.
Tôi cho mẹ tôi và Robert xem tất cả những bức thư của gia đình các bạn. Mẹ tôi cũng có một thời gian gian khổ như vậy. Bà từng là một cô bé nghèo phải rời nhà ra đi từ năm 13 tuổi nhưng cuối cùng đã đạt được bằng cấp đại học và đã nhiều năm nay dạy học. Giờ đây ở tuổi 81 bà vẫn là một người khuyên bảo tuyệt vời cho tôi mỗi sáng khi tôi đến thăm bà và tôi cùng bà chăm sóc những bông hoa - nếu thời tiết cho phép ngày nào bà cũng làm công việc đó. Bà cũng là một họa sĩ và vẫn tiếp tục dạy vẽ cho mọi người trong thành phố cũng như vẫn vẽ. Nhất định tôi sẽ gửi cho mẹ của các bạn một trong những bức tranh của bà vẽ về hòa bình, một món quà giữa hai gia đình có rất nhiều điểm giống nhau nhưng lại ở thật xa nhau.
Sau khi từ chiến trường Việt Nam trở về nhà, thân thể tôi chỉ bị thương chút ít nhưng trái tim bị tổn thương. Ngay sau khi trở về tôi quay lại trường đại học và tiếp tục học môn hóa. Học xong đại học tôi tiếp tục làm tiến sĩ về hóa học ở Đại học Duke trong 5 năm rưỡi. Tôi nhớ thời ấy rất khó khăn. Khi làm luận án tiến sĩ tôi cần có người tài trợ và giáo sư của tôi khuyên nên chọn người tài trợ là quân đội Mỹ. Nhưng người ta muốn tôi nghiên cứu về các vật liệu có chứa phốtpho. Những nghiên cứu như thế có thể giúp phát triển một cuộc chiến tranh vũ khí hóa học. Vậy là tôi tức giận từ chối và nói là tôi sẽ thôi không nghiên cứu nữa. Tôi sẽ không để cho người ta sử dụng để giết người một lần nữa. Giáo sư nói với tôi một ngày kia tôi sẽ hiểu rằng bất cứ thứ gì được con người sáng tạo ra sẽ có một kẻ tìm cách sử dụng nó với những mục đích hủy hoại, đồng thời lại có người khác tìm cách sử dụng nó với mục đích tốt đẹp. Dẫu thế tôi vẫn từ chối và cuối cùng đề tài nghiên cứu của tôi là cácbon. Sau khi nhận được bằng tiến sĩ hóa học vào năm 1980, tôi tới Texas để tiếp tục học tập và nghiên cứu nhưng chẳng bao lâu tôi nhận thấy không thỏa mãn. Vậy là tôi lại làm việc cho Chính phủ Mỹ một lần nữa và trở thành một nhân viên của FBI. Suốt 4 năm, mặc dù là tiến sĩ hóa học nhưng tôi lại làm một thám tử đặc biệt của FBI chuyên điều tra các vụ cướp nhà băng, bắt cóc trẻ em, các vụ ma túy có liên quan đến hêrôin, cần sa, côcain và các chất gây nghiện khác. Sau đó, tôi chuyển tới làm ở một phòng thí nghiệm về các tội phạm hình sự của FBI, Washington DC. Chính ở đó tôi đã trở nên nổi tiếng cả trong nước lẫn quốc tế. Các bạn thử gõ tên tôi trên Internet và xem người ta đã viết những gì. Cuối cùng, tôi đã kiện Tổng thống Mỹ, Tổng Luật sư, Giám đốc FBI, Cơ quan FBI, Bộ Tư pháp Mỹ và Chính phủ Mỹ. Đó là cả một câu chuyện dài về một người đàn ông không chịu nhìn thấy sai trái và quay lưng lại với sai trái. Trên Internet người ta viết rất nhiều về chuyện đó.
Năm 1998, sau khi thắng tất cả các vụ kiện, tôi về hưu sớm, quay về sống ở cái xóm nhỏ Bethel để tiếp tục công việc và chăm sóc cha mẹ tôi. Năm 2000, cha tôi qua đời nhưng mẹ tôi còn sống và là một kho báu đối với gia đình tôi cũng như đối với tôi. Vì tôi có học luật trong những năm từ 1992 đến 1996 tại Đại học Georgetown ở Washington DC cho nên từ khoản hai năm rưỡi nay tôi bắt đầu hành nghề luật.
Trong những năm ấy, cuốn nhật ký của Thùy Trâm trải qua một cuộc chu du chắc các bạn sẽ thấy khá thú vị. Hồi ở Việt Nam, tôi luôn giữ hai cuốn nhật ký bên mình. Trước khi rời Việt Nam về Mỹ, tôi đã đưa nó cho một người bạn ở cùng đơn vị hồi ở Đức Phổ. Anh ấy lấy vợ người Hà Nội và tôi nhờ chị dịch hộ ra tiếng Anh. Khi tôi về tới nhà anh ấy gửi cho tôi bản dịch và hỏi tôi có muốn lấy lại cuốn nhật ký không. Tôi cảm thấy có lẽ để anh ấy giữ thì tốt hơn bởi vì anh ấy là luật sư. Thời gian trôi qua. Năm 1982, tôi học xong đại học và vào làm việc cho FBI. Cả tôi cùng anh tôi đều đọc bản dịch cuốn nhật ký. Nhưng làm thế nào để tìm được gia đình Thùy Trâm? Chúng tôi không biết. Việc tôi vào làm việc cho FBI khiến tôi phải ngừng tìm kiếm mất 10 năm. Tôi đã hỏi và tìm kiếm thông tin, nhưng thời gian sau chiến tranh ở Việt Nam gần như người ta không thể tìm được ai. Tôi biết Hà Nội đã bị ném bom và sợ rằng gia đình Thùy Trâm chết hết rồi.--PageBreak--
Năm 1992, tôi sống ở Washington. Có một nhà báo đã viết cho tờ Bưu điện Washington một bài báo tên là “Người xa lạ giữa quê hương xa lạ”. Hồi nhỏ nhà báo này sống ở Hà Nội và khi trở về anh thấy tuổi thơ của mình hoàn toàn đã mất đi. Tôi liên lạc với anh, anh nói rằng có thể gia đình Thùy Trâm đã chết trong chiến tranh. Tuy nhiên, tôi và anh Robert thấy đồng bào của Thùy Trâm cần phải biết chị là một anh hùng (Chúng tôi không biết mọi người đã biết chị là một anh hùng). Robert và tôi nói với nhau chuyện này trong bao năm. Chúng tôi quyết định nếu hai cuốn nhật ký đã được dịch sang tiếng Anh thì cũng có thể xuất bản thành sách để cả thế giới đọc nó, vậy là chúng tôi cũng hoàn thành nhiệm vụ. Vì thế tôi gọi điện cho người bạn đã dịch hộ cuốn nhật ký, nhưng anh trả lời hình như đã gửi trả nó lại cho tôi từ lâu. Tôi tin anh ấy đã lục tìm khắp nơi rất lâu nhưng không tìm thấy hai cuốn nhật ký. Vì thế tôi nghĩ có thể trong bao lần vợ chồng tôi chuyển nhà khắp nước, hai cuốn nhật ký đã bị thất lạc. Thế rồi cách đây vài năm, người bạn đó gọi điện báo tin rằng trong khi lục lọi đống hồ sơ luật lưu trữ từ năm 1966, anh ấy tìm thấy hai cuốn nhật ký. Chúng vẫn nằm nguyên trong cái phong bì mà tôi đã gửi cho anh. Anh hỏi tôi có muốn lấy lại không. Tôi trả lời tôi rất muốn lấy lại, nhưng xin anh đừng gửi bằng đường bưu điện bởi vì có thể bị thất lạc mà hai cuốn nhật ký đó lại vô cùng quý giá. Vậy là tôi bay đi California để tự mình nhận hai cuốn nhật ký. Lúc đó, tôi đã có máy tính và máy quét. Tôi bèn quét hai cuốn nhật ký cùng những bức ảnh và gửi bản quét cho Robert để anh ấy dịch lại.
Mấy năm nay Robert vẫn dịch hai cuốn nhật ký. Sau đó Robert tìm thấy trên một trang ở cuối cuốn sổ tên và địa chỉ cha mẹ cô (hoặc chúng tôi đoán thế). Mấy năm sau này một người bạn của chúng tôi đã liên lạc được với gia đình ở Hà Nội và nói rằng gia đình cô vẫn còn sống và hiện đang điều hành một bệnh viện cách Hà Nội 8 km về phía nam. Nhưng không rõ vì lý do gì mà người bạn đó không tiếp tục liên lạc.
Trong khi chúng tôi tiếp tục tìm kiếm, tình cờ Robert tìm được một website của một nơi gọi là “Dự án Việt nam” tại Trường đại học Tổng hợp Texas. Robert gọi điện cho trường đại học đó và biết họ có một phòng lưu trữ tất cả các tài liệu trong chiến tranh Việt Nam. Robert và tôi bàn nhau về việc này. Nhưng tôi rất sợ người khác không coi trọng cuốn nhật ký như chúng tôi, vì thế tôi đã nói chuyện với người ở phòng lưu trữ trong một thời gian dài và họ giúp tôi nhận ra rằng cuốn nhật ký thật sự bị nguy hiểm nếu tôi giữ nó. Thử nhìn xem, tôi đã 57 tuổi và đi lại khá nhiều, vạn nhất có điều gì xảy ra với tôi thì tất cả giấy tờ của tôi sẽ chỉ đơn giản bị vứt vào thùng rác, và rồi hai cuốn nhật ký sẽ mãi mãi mất đi. Với lại dự án Việt Nam này hàng năm có những cuộc hội thảo, sẽ có nhiều người từ cả hai phía Việt Nam cũng như Mỹ đến dự để thuyết trình về chiến tranh. Tôi đã gửi cho trường đại học một vài thứ khác mình có thử xem sao. Mọi người ở đó rất tốt bụng và rất kiên nhẫn đối với tôi. Rồi Robert thuyết phục tôi đến thuyết trình ở hội nghị.
Cuộc họp đó rất khó khăn đối với tôi. Trong chiến tranh tôi đã nhìn thấy rất nhiều điều mà tôi không thể nào quên được. Tôi đã nhìn thấy quá nhiều lính Mỹ làm những điều sỉ nhục đất nước tôi, những điều tôi không thể nào quên được. Và, tôi đã thấy những sĩ quan cao cấp cố quay đầu bỏ qua những hành động ấy. Tôi đã nhìn thấy nhiều người dân Việt Nam bị xúc phạm bởi sự lăng nhục đó. Điều đó không có nghĩa là tôi nghĩ xấu về Tổ quốc mình mà chỉ giải thích rằng những ký ức của tôi về 3 năm chiến tranh ở Việt Nam còn quá mạnh và tôi không thể nói ra mà không bị xúc động. Bọn trẻ ngày nay dễ dàng tha thứ cho sự bỏ qua đó. Vì thế tôi bảo Robert là tôi sẽ chỉ đi Texas nếu có anh đi cùng. Robert đồng ý đi với tôi và động viên tôi thuyết trình. Và quả nhiên điều tôi e ngại đã xảy ra. Trong khi thuyết trình tôi đã xúc động rất mạnh và bài thuyết trình rất khó khăn. Cũng trong cuộc gặp mặt đó tôi đã tặng hai cuốn nhật ký cho kho lưu trữ để họ có thể giữ gìn nó. Tôi tin rằng ở đó nó sẽ được giữ gìn rất tốt.
Nhưng tại cuộc họp đó, tôi gặp một người tên là Bảo Ninh, tác giả cuốn “Nỗi buồn chiến tranh”. Anh ta là người Hà Nội và là NVA (lính Bắc Việt - ND) trong chiến tranh. Hôm qua anh vừa viết cho tôi (thông qua con trai đang học ở Boston) muốn tôi gửi thêm thông tin về Thùy Trâm cho anh ấy thật nhanh. Tôi nói với anh rằng chúng tôi đã tìm được gia đình Thùy Trâm.
Tôi cũng gặp Ted Englemann ở cuộc họp đó. Chúng tôi đã đưa cho nhiều người đĩa CD mà Ted đã đưa cho gia đình các bạn. Tôi kết thúc bài thuyết trình của mình bằng câu nói mạnh mẽ rằng không một chính phủ nào có thể ngăn cản việc chúng tôi trả cuốn nhật ký về cho gia đình. Và Ted - nhờ sự giúp đỡ của hai người bạn - đã tìm được gia đình các bạn.
Đó là chuyện về cuộc phiêu lưu của cuốn nhật ký của bác sĩ Đặng Thùy Trâm. Bởi vì trong 35 năm qua cuốn nhật ký chỉ được mở ra vài lần - có lẽ không quá mười lần nên chúng gần như còn nguyên như từ hồi Thùy Trâm viết vào đó lần cuối cùng. Giấy bắt đầu bị rạn và phải thật cẩn thận khi cầm nó nhưng nét chữ vẫn còn rất rõ như các bạn có thể nhìn thấy trong đĩa CD. Lúc ở Texas tôi tìm Bảo Ninh và bảo anh hãy tận mắt nhìn hai cuốn nhật ký, tận tay cầm nó và thấy nó là có thật. Bảo Ninh không nói được tiếng Anh và rất bối rối trước đề nghị của tôi nhưng anh đã tận tay cầm và tận mắt nhìn cuốn nhật ký và biết chúng là có thật. Anh cũng đã đọc toàn bộ đĩa CD mà tôi đưa. Tôi nghĩ anh sẽ đến gia đình ngay để nói rằng đã tận mắt nhìn thấy hai cuốn nhật ký