Cố ca sĩ - nhạc sĩ Duy Khánh: Huyền thoại Bolero

Thứ Sáu, 08/11/2019, 08:10
Âm nhạc của Duy Khánh đậm dấu ấn âm hưởng dân ca miền Trung. Ngay từ khi sớm nổi tiếng với những ca khúc của Phạm Duy, ca sĩ Duy Khánh đã định hình cho mình một phong cách âm nhạc dân gian...


Giọng hát Duy Khánh (1936-2003) sớm có sức cạnh tranh một thời với các giọng ca Hùng Cường, Nhật Trường và Chế Linh. Tuy mỗi người một màu sắc khác nhau nhưng Duy Khánh có làn hơi khỏe và ngân dài khó ai địch nổi. Hơn nữa, Duy Khánh lại chuyên hát dòng nhạc quê hương tạo nên “đặc sản” cho riêng mình.

Cả cuộc đời Duy Khánh chỉ hát về quê hương với âm sắc ngọt ngào trong sáng pha chút u buồn nhưng không ủy mị.

Một trò chơi “Trời cho”

Ngay khi biết cậu nhỏ Diệp (Nguyễn Văn Diệp, tên khai sinh của Duy Khánh) cứ ca hát suốt ngày chả chịu học hành, ông bố đã cấm tiệt. Nhưng cậu nhỏ Diệp đâu dễ bỏ thói quen. Mỗi khi đi học hay đến trường, cậu Diệp thường trốn đi tập hát. Nhiều đêm cậu còn đóng kín cửa, chui đầu vào chum gạo hát véo von cho đến sáng mới thôi.

Giọng hát tự nhiên trong trẻo vang ngân được ông trời ban cho đã tạo nên tính cách lãng mạn bay bổng của Diệp. Cậu mong ước sau này trở thành ca sĩ làm rạng danh gia tộc thuộc dòng dõi “Quận công” từ thời ông nội để lại. Sau khi tốt nghiệp cấp hai, Diệp được gia đình cho chuyển từ quê Quảng Trị vào Huế học lên Trung học toàn phần (1952).

Cố nhạc sĩ, ca sĩ Duy Khánh lúc trẻ.

Được vào Huế như chim sổ lồng, cậu Diệp chỉ tập trung vào đàn ca sáo nhị, hát hò thâu đêm. Diệp trở thành ca sĩ chính của ban nhạc trẻ ở Huế. Cậu còn được mời về Sài Gòn tham gia các chương trình phụ diễn ở các rạp chiếu bóng. Thậm chí, dù mới chỉ 16 tuổi, Diệp còn được hát chung với ca sĩ nổi tiếng Tuyết Mai lúc bấy giờ. Cậu tự lấy nghệ danh cho mình là Tăng Hồng và mạnh dạn dự thi đơn ca tại đài Pháp Á tổ chức ở Huế (1955).

Ai ngờ, giọng hát của Tăng Hồng đoạt giải Nhất với ca khúc “Trăng thanh bình”. Giải thưởng như một sự khẳng định tài năng ca hát của Diệp. Năm sau cậu bỏ học trốn gia đình vào Sài Gòn lập nghiệp.

Sài Gòn vào năm 1956 đang nở rộ trào lưu tân nhạc. Không khí âm nhạc rất sôi nổi cùng với sự hiện diện lừng lẫy của Thanh Thúy, Thái Thanh, Thái Hằng, thêm nữa nào là Phạm Duy, Duy Trác, Nhật Trường, Chế Linh, Hùng Cường…

Ca sĩ Duy Khánh (Duy từ tên Phạm Duy; Khánh là tên bạn thân của Diệp từ nhỏ) lúc đó không mấy được chú ý. Không ngờ, chỉ mới nghe Duy Khánh hát thử, nhạc sĩ Phạm Duy lập tức mời anh tham gia chương trình ca nhạc Hoa Xuân. Đặc biệt Duy Khánh được chọn cùng danh ca Thái Thanh hát hai ca khúc của Phạm Duy thì mọi sự thay đổi hẳn đối với Duy Khánh. Đó là thời điểm năm 1965, Duy Khánh nổi lên trên bầu trời âm nhạc với hai ca khúc “Con đường cái quan” và “Mẹ Việt Nam”.

Có thể gọi đây là hai bản trường ca đòi hỏi giọng hát cao vút, ngân vang mới biểu hiện được tư tưởng của tác giả. Duy Khánh trình bày chững chạc và có chiều sâu nội tâm. Có thể nói, chỉ giọng nam cao (Terno I) của Duy Khánh mới đủ sức thể hiện được hai tác phẩm này. Từ đó, các ca sĩ gạo cội có cái nhìn khác hẳn với giọng hát của Duy Khánh. Họ nể trọng và thán phục tài năng thiên bẩm của anh.

Sau này người nghe còn nhắc đến tác phẩm “Hòn Vọng phu” qua cặp song ca Duy Khánh - Hoàng Oanh. Ít có nam ca sĩ hát lại bài này vì thấy giọng hát của Duy Khánh đạt tới đỉnh khó vượt qua. Còn nữa, với ca khúc “Vọng ngày xanh”, người nghe cũng đã quen với giọng hát cao vút Thái Thanh. Coi như đó là bài hát độc quyền của Thái Thanh. May ra chỉ có Hùng Cường mới thể hiện phần nào so với Thái Thanh khi biểu diễn ca khúc này. Nhưng đến khi Duy Khánh trình bày thì khác hẳn. Anh đã gây sự náo nhiệt trong khán giả. Đến đoạn kết phải ngân lâu thì Duy Khánh đã thể hiện một khả năng kéo dài bất tận. Khán giả bật dậy vỗ tay tới bốn lần tán thưởng mà tiếng hát Duy Khánh vẫn ngân nhẹ nhàng và dần tan biến vào trong khoảng lặng.

Không ai khác, nhạc sĩ Phạm Duy đã nhận xét: “Trong giọng ca Duy Khánh, nghe âm hưởng của tiếng trống cổ thành, tiếng thông reo trên đồi Vọng Cảnh (Huế)”. Ông còn nói ca sĩ Duy Khánh có thể ngân dài tới 21 nhịp và chuyển từ thấp lên cao, vượt quãng hai bát độ một cách thanh thoát như chim bay.

Nỗi buồn xa xứ

Mâu thuẫn nội tâm trong cuộc đời của Duy Khánh đã được báo hiệu từ những ngày anh bước chân sang xứ người (1988). Tưởng như cuộc đời sẽ đổi thay khi cả gia đình được người em bảo lãnh sang Mỹ, nhưng có ngờ đâu, tâm hồn Duy Khánh lại trở nên bạc nhược mệt mỏi. Lòng anh luôn luôn muốn trở về, tâm hồn anh bị xao động vì nỗi nhớ quê hương. Giọng hát đã pha những nghẹn ngào tiếc nuối.

Bên cạnh đó, những sáng tác của Duy Khánh luôn ẩn chứa nỗi sầu thương. Ân oán cuộc đời anh trao gửi hết vào lời ca khi hát về nỗi buồn xa xứ. Mỗi lời cất lên là một nỗi ám ảnh cố hương. Hãy lắng nghe rằng: “Anh ơi, cho dù anh trở về quê hương hoặc còn tha phương. Xin anh còn giữ  vẹn câu thề. Dù gió mưa về vẫn một lòng yêu mến quê. Ngày mai ta xa nhau rồi, nhưng tin trong đời anh sẽ còn gặp tôi. Quê cũ mừng vui” (Xin anh giữ trọn tình quê).

Cho dù đây là bài hát anh đã sáng tác từ hồi 1966 với lời nhắn nhủ người khác đã chia tay bạn bè thân thương khi bỏ xứ xa quê. Vậy mà giờ đây anh hát cho chính mình, khóc vì đã dấn thân tha hương xứ người.

Cố nhạc sĩ, ca sĩ Duy Khánh thập niên 70.

Phải nói, ca sĩ Duy Khánh là một nhạc sĩ chuyên sáng tác những ca khúc về tình yêu quê hương xuất sắc. Những chùm bài hát về Huế của anh rất đặc sắc và có những bài sống mãi với thời gian như: “Ai ra xứ Huế”, “Sầu cố đô”, “Thương về miền Trung”, “Thư về em gái thành đô”, “Bao giờ em quên”... Anh cũng là một trong số ít ca sĩ có khả năng sáng tác ca khúc như Từ Công Phụng, Chế Linh, Nhật Trường và Đức Huy.

Thực ra Duy Khánh cũng là một trường hợp hiếm có khi vừa mới vào nghề ca hát, anh đã sáng tác khá sớm. Thậm chí từ năm 1959 anh đã có sáng tác rất nổi tiếng là “Thương về miền Trung” hay “Ai ra xứ Huế”. Nhiều người ngỡ ngàng vì anh mới ngoài 20 tuổi chưa có tiếng tăm gì trong làng ca hát nhưng lại mọc mũi sủi tăm qua những sáng tác đầu tay. Chỉ một năm sau, Duy Khánh đã có sáng kiến xuất bản nhạc bướm với chủ đề “1001 Bài ca hay nhất” (1960). Bản nhạc bướm phát hành được nhiều nhạc sĩ ủng hộ vì bản in đẹp và dễ bán. Bản nào cũng được minh họa trình bày khá hấp dẫn.

Trong thời gian sống ở Mỹ, nhạc sĩ Duy Khánh lập trung tâm nhạc Trường Sơn để tự sản xuất đĩa hát và quy tụ những nhạc sĩ nổi tiếng ra mắt Album. Đáng chú ý, Duy Khánh còn mở lớp dạy nhạc cho các con em Việt kiều, ngay tại trung tâm của mình. Lớp học luôn hướng tới tình yêu quê hương qua rất nhiều cung điệu truyền thống.

Âm nhạc của Duy Khánh đậm dấu ấn âm hưởng dân ca miền Trung. Ngay từ khi sớm nổi tiếng với những ca khúc của Phạm Duy, ca sĩ Duy Khánh đã định hình cho mình một phong cách âm nhạc dân gian. Những sáng tác của anh khởi đầu từ thập niên 60 chan chứa nỗi niềm tình quê. Nếu tính từ ca khúc “Đêm nào trăng sáng” (1959) đến “Điệu buồn chia xa” (1994), Duy Khánh đã viết 38 tác phẩm và phát hành 50 Album ca nhạc. Trong thời gian 15 năm sống trên đất Mỹ anh khó sáng tác hơn trước. Nhiều đêm anh đã khóc vì mong muốn được trở về. Nỗi buồn tha hương day dứt tâm hồn anh.

Nhớ quá mẹ hiền, nhớ quá anh em

Khán giả không thể quên đôi mắt đọng sầu của Duy Khánh mỗi khi anh hát ca khúc “Xuân này con không về” và “Người lính già xa quê hương”. Mười lăm năm tha hương. Tết nào anh cũng hát với nấc nghẹn trong con tim. Mọi người vừa nghe vừa nhỏ lệ cùng anh qua lời ca: “Nhớ quá mẹ hiền, nhớ quá anh em. Vẫn thấy quê hương đêm ngày réo gọi. Vẫn thấy trong tim canh cánh đường về. Vẫn thấy nơi đây chỉ là đất tạm. Thầm hẹn ngày về chết giữa quê hương”.

Thật tiếc cho người nghệ sĩ tài hoa này không thực hiện được ước nguyện của mình. Mỗi lần định về lại một lần lỡ hẹn. Đúng đầu xuân năm 2003, Duy Khánh vĩnh viễn ra đi trong cơn bạo bệnh. Đó chính là căn bệnh suy sụp trong tâm hồn.

Dự tang của anh, mọi người thầm lặng đi theo sau xe tang mà vẫn nghe lời anh ngân nga vẳng lên trong không trung: “Hương Giang thuyền không chỗ đậu. Ngự viên có bướm hoa vàng. Hay là hài xưa yêu dấu. Đưa người đẹp ấy sang ngang” (Bao giờ em quên). Duy Khánh được khán giả vinh danh là một “huyền thoại” của dòng nhạc Bolero ở Việt Nam.

Bội Kỳ
.
.
.