Cao Biền - huyền thoại và sự thật

Thứ Năm, 10/09/2020, 10:08
Trong "Chiếu dời đô" - một văn kiện lịch sử vô giá về lịch sử Thủ đô Hà Nội ngày nay, Đức Lý Thái Tổ, cách nay 1010 năm trang trọng viết: "Huống Cao Vương cố đô Đại La thành, trạch thiên địa khu vực chi trung, đắc long bàn hổ cứ chi thế" (Huống chi thành Đại La, đô cũ của Cao Vương, ở giữa khu vực trời đất, có thế rồng chầu hổ phục). Cao Vương ở đây, không nghi ngờ gì, là Cao Biền.


Theo chính sử nước ta thì thành Đại La do Cao Biền xây dựng có chu vi 1982,5 trượng (khoảng 6,6 km), cao 2,6 trượng (khoảng 8,67m), chân thành rộng 2,5 trượng (khoảng 8,33m), có 55 lầu vọng, 3 hào nước, 34 đường đi. Ngoài thành còn có đê bao quanh bảo vệ dài 2,125 trượng (khoảng 7,09 km), đê cao 1,5 trượng (khoảng 5 m). Như vậy Cao Biền là người có công lao trong việc xây thành Đại La. 

Năm 938, Ngô Quyền thắng quân Nam Hán, mở ra kỷ nguyên độc lập tự do. Năm 1010, Lý Thái Tổ dời đô về Đại La. Khi thuyền còn đỗ dưới thành, nhà vua chợt nhìn thấy có con rồng vàng từ phía đầu thuyền rồng mà bay lên. Ngài nghĩ đây là điềm trời phù hộ bèn đổi tên thành là Thăng Long.

Hình ảnh minh họa Cao Biền cưỡi diều giấy.

Theo chính sử Tàu thì Cao Biền người U Châu (Bắc Kinh ngày nay), là cháu nội của danh tướng Cao Sùng Văn - người có công dẹp loạn cuộc khởi nghĩa của Lưu Tịch dưới triều Đường Hiến Tông. Cao Biền dòng dõi nhà võ nhưng giỏi văn, được thăng chức Hữu Thần Sách đô ngu hậu. Năm Hàm Thông (863) quân Nam Chiếu (tức quân Đại Lễ) chiếm đất An Nam từ tay nhà Đường. Năm 864 Cao Biền là tướng của Lĩnh Nam Tây đạo Tiết độ sứ quân Trương Nhân tiến đánh chiếm lại đất đã mất. Cao Biền được tiến cử An Nam đô hộ kinh lược chiêu thảo sứ. Vua Đường Ý Tông chính thức thăng Cao Biền làm Tiết độ sứ. Như vậy Cao Biền là kẻ ngoại bang xâm lược, được phong tước hiệu, làm quan cai quản xứ Giao Chỉ.

Cao Biền là một nhân vật đặc biệt trong cả nền văn học viết và văn học dân gian. Nói đặc sắc vì tần số xuất hiện rất lớn, hành tung công trạng lại mờ ảo, hấp dẫn. Nhất là chuyện ông ta có tài phong thủy, trấn yểm... nên càng mời gọi các sử gia, các nhà văn chương viết/kể truyện.

Trong "Lĩnh Nam chích quái"  có truyện "Dấu trâu vàng ở huyện Tiên Du" (Bắc Ninh ngày nay) viết về Cao Biền "giỏi thuật số, thông địa lý, thường cưỡi diều giấy bay trên không trung để yểm các nơi thắng cảnh…". 

Và các truyện "Thần chính khí Long Đỗ" kể khi đắp xong La Thành thì Biền gặp "một dị nhân mặc áo màu sặc sỡ, trang sức trông kỳ lạ, cưỡi con rồng đỏ, lơ lửng trong mây khói, khí thế ngùn ngụt, bay lên lượn xuống" tự xưng là Long Đỗ Vương. Hoảng sợ Biền "lập đàn, và dùng nghìn cân sắt đúc tượng theo hình dạng thần nhân để làm bùa yểm". Nhưng khi vừa "đọc thần chú bỗng trời đất mù mịt ngày đêm, mưa gió giật đùng đùng, tượng sắt nát vụn ra mà bay lên không. Biền sợ hãi, có ý muốn về phương Bắc…". 

Truyện "Tản Viên Sơn Thánh" miêu tả chi tiết chuyện "trấn yểm" của Cao Biền: "Khi Cao Biền nhà Đường ở An Nam, muốn yểm những nơi linh địa bèn mổ bụng con gái chưa chồng mười bảy tuổi, vứt ruột đi, nhồi cỏ bấc vào bụng, mặc quần áo vào, rồi đặt ngồi trên ngai, tế bằng trâu bò, hễ thấy cử động thì vung kiếm mà chém đầu". Biền đem thuật này "áp dụng" hãm hại thần linh Tản Viên nhưng chỉ "thấy Vương cưỡi ngựa trắng ở trên mây, nhổ nước bọt mà bỏ đi". Biền than rằng: "Linh khí ở phương Nam không thể lường được. Vượng khí đời nào hết được…". Như vậy thần Tản Viên rất coi/khinh thường tài "trấn yểm" của Biền...

Năm 1427 Lê Lợi phá thành Đông Quan bắt sống Hoàng Phúc - Thượng thư bộ Công của nhà Minh, thu nhiều sổ sách, giấy tờ rất quan trọng, hiếm và quý. Đặc biệt trong số này có cuốn "Cao Biền địa lý tấu thư kiểu tự", hiểu thoát nghĩa là sách tấu của Cao Biền về địa lý, liệt kê xứ Giao Chỉ có 632 huyệt chính, 1517 huyệt phụ là những nơi "huyệt đạo" phát "nhân tài anh kiệt", "văn thì đến Tam khôi Trạng nguyên", võ thì đến "Quận công danh tướng"... Chưa hết, còn có tập "Cao Biền tấu thư cửu long kinh" có nội dung là sách tấu của Cao Biền về phong thủy liệt kê 27 "đại địa" phát đế vương.

Điều gây ngạc nhiên cho hôm nay là những "liệt kê" này, đối chiếu với lịch sử thì thấy có nhiều phần đúng. Điều này khẳng định: Cao Biền là người có năng lực phán đoán về mặt phong thủy. Đó là sự thật!

Nhưng huyền thoại lại phủ một bóng sương mờ ảo lên sự thật làm cho vấn đề trở nên huyễn hoặc, hấp dẫn, mời gọi hơn. Sách "Thiền uyển tập anh" kể biết Cao Biền "cắt đứt long mạch" ở sông Điềm, Thiền sư La Quý (tu chùa Song Lâm), trước khi mất (936) nhắn đệ tử Thiền Ông, đại ý biết đất Cổ Pháp "phát vương" nên Cao Biền "trấn yểm". Để phá thế đó, "ở chùa Châu Minh ta đã trồng một cây bông gạo... Sau khi ta tịch, con khéo đắp một ngọn tháp bằng đất, dùng phép, yểm dấu trong đó...". "

Truyền thuyết núi Cánh Diều" (Ninh Bình) kể khi sang Giao Châu, thấy long mạch nước Nam rất vượng, muốn phá đi, Cao Biền thường mặc áo phù thủy, cưỡi diều giấy xem địa thế, rồi lập đàn cúng tế lừa thần bản địa đến rồi dùng kiếm báu chém đầu, sau đó đào hào, chôn kim khí để triệt long mạch. Một lần cưỡi diều giấy bay đến Hoa Lư thì bị một đạo sĩ cùng dân chúng dùng tên bắn. Cao Biền trọng thương, diều gãy cánh rơi xuống một hòn núi, từ đó núi mang tên Cánh Diều.

Cột đá chùa Dạm, theo truyền thuyết là của Cao Biền.

Thành ngữ "Lẩy bẩy như Cao Biền dậy non" thực ra "thoát thai" từ truyền thuyết cùng tên kể chuyện Cao Biền có phép thuật "tản đậu thành binh". Biền gieo đậu vào đất, ủ kín một thời gian, đọc thần chú rồi mở ra, mỗi hạt đậu hóa thành một tên lính. Để yểm bùa và triệt hạ long mạch, Biền thường nuôi 100 âm binh. Một lần ông ta ở trọ nhà một bà hàng nước, nhờ bà mỗi ngày thắp một nén hương. 100 ngày thắp 100 nén hương sẽ gọi dậy 100 âm binh. Biết được tà ý, bà lão thắp cả 100 nén hương trong một ngày. Thành ra Biền có đủ 100 âm binh nhưng do "dậy non" nên chẳng làm được trò trống gì... Như vậy có thể tuy tài giỏi phong thủy, trấn yểm nhưng Biền vẫn lại thua trí tuệ đàn bà xứ An Nam. Có thể đây là giọt "nắng quái" của hoàng hôn thời mẫu hệ còn rớt lại rồi rơi vào thần thoại. Nhưng dứt khoát đây là sự khẳng định ý chí "Giặc đến nhà đàn bà cũng đánh" của người dân Việt.

Lại có "Truyền thuyết mả Cao Biền" kể sau khi trấn yểm Đại La không thành, Biền sợ linh khí nước Nam mà đi mãi về phương Nam, đến tận Phú Yên. Đến một làng nhỏ ven biển thấy có long mạch, Biền bèn sinh sống tại đây rồi giúp dân nhiều việc, xem đất dựng nhà, để mồ mả…Khi chết, Biền được dân làng chôn cất tử tế. Ngày nay, ở huyện Tuy An còn dấu tích mả Cao Biền nằm trên một ngọn đồi. Hình ảnh ấy được sinh động hóa trong câu ca dao: "Nhìn ra thấy mả Cao Biền/ Nhìn vào thấp thoáng Ma Liên, Chóp Chài".

Một dấu tích gắn với truyền thuyết về Cao Biền còn lại đến nay là cột đá (trên đỉnh núi Dạm (Bắc Ninh) được cho là vật trấn yểm. Truyền thuyết kể, tin rằng vùng đất Nam Sơn quanh núi Dạm là đất phát vương với thế rồng cuộn hổ ngồi, Biền bèn dựng cột đá ấy để phá. Nhưng kết cấu và hình dáng cột đá nặng khoảng trên 50 tấn này thì có phần "phản" lại truyền thuyết: đó là tác phẩm điêu khắc rồng đá theo phong cách thời Lý. Đây là cái cột duy nhất của ngôi chùa một cột thời Lý (tương tự chùa Một Cột ở Hà Nội hiện nay) chăng?! Nhưng giới nghiên cứu chưa đủ cứ liệu để khẳng định.

Lịch sử thì có sự thật này: Sau khi Cao Biền chết 51 năm thì Ngô Quyền thắng quân Nam Hán, từ đó mở ra thời kỳ của quân dân Đại Việt luôn chiến thắng các cuộc xâm lược của bè lũ phong kiến phương Bắc. Như vậy "công lao" trấn yểm của Cao Biền đều hóa thành vô ích. Nhưng điều ấy có hạt nhân biện chứng nổi bật sau:

Một là nước ta thật sự là vùng đất giàu có huyệt địa phát tướng phát vương. Hai là, sự "trấn yểm", đối chiếu với lịch sử, là có thật. Nhưng như ta thấy, Cao Biền chẳng thu được "hiệu quả" gì, mà ngược lại Cao Biền lại chịu hậu họa. Đây là một nguyên lý trong "trần yểm" cổ xưa: phải thật sự tài năng, hiểu, làm chủ được các phương thức "trấn yển", còn nếu không sẽ phản tác dụng. Ba là, tinh thần tự chủ của văn hóa Việt thật sự lớn lao. Rất nhiều huyền thoại chung quanh Cao Biền đều có hạt nhân khẳng định sự thất bại hiển nhiên của Biền trước "thần linh" nước Nam. Như vậy, xét đến cùng, câu chuyện về Cao Biền chính là câu chuyện về chủ quyền, tự hào và khẳng định cũng như quyết tâm bảo vệ chủ quyền dân tộc.

Nguyễn Thanh Tú
.
.
.