Chuyện quái dị về “đạo Dừa” Nguyễn Thành Nam: Thiên sứ hay tâm thần?

Thứ Tư, 16/09/2015, 15:00
Là một cù lao nằm giữa sông Tiền thuộc xã Tân Thạch, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre, cồn Phụng có diện tích khoảng 28ha, người dân nơi đây ngoài trồng cây ăn trái như mít nghệ, bưởi, cam, xoài, sabôchê…, họ còn rất khéo tay trong việc làm những món đồ thủ công mỹ nghệ từ cây dừa…

Trước ngày giải phóng, cũng chính cồn Phụng là nơi khai sinh ra một tôn giáo kỳ quặc nhất miền Nam Việt Nam, gọi là "đạo Dừa", do ông Nguyễn Thành Nam làm "giáo chủ"!

Chở 1 triệu đồng đi ứng cử… Tổng thống!

Sáng ngày 1/8/1971, một toán Giang cảnh (là đơn vị thuộc quân đội Sài Gòn, phụ trách an ninh đường sông) trong lúc chốt chặn tại ngã ba sông Tiền và kênh Chợ Gạo đã tiến hành kiểm tra một chiếc ghe giăng đầy những lá cờ đuôi nheo ngũ sắc, trên mui ghe có tấm biểu ngữ nền vàng chữ đỏ: "Tôn giáo hòa đồng - Ứng cử tổng thống".

Trước mũi ghe, một người đàn ông tuổi trạc 40, mặt mũi quắt queo, đầu trọc nhưng phần tóc sau ót lại được để dài rồi vấn thành một vòng ngang trán. Ông ta ở trần, mình khoác tấm vải màu vàng, có dây thắt ngang lưng và kèm theo là một chiếc chìa khóa to đùng, ngồi xếp bằng, hai tay chắp trước ngực. Sau lưng ông có 6, 7 người khác, quần áo nâu, tóc búi tó củ hành, đầu bịt khăn, đứng thành hai hàng như thể đang "hộ giá" ông áo vàng kia.

Đạo Dừa Nguyễn Thành Nam trong một lần tiếp khách nước ngoài. Ảnh: Wilbur E. Garrett.

Khi toán Giang cảnh lên ghe kiểm soát giấy tờ, mới hay người khoác tấm vải màu vàng là "đạo Dừa" Nguyễn Thành Nam, từ cồn Phụng, xã Phước Thạnh, quận Trúc Giang, tỉnh Kiến Hòa (nay là xã Tân Thạch, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre) lên Sài Gòn để vào Tối cao Pháp viện nộp 1 triệu đồng tiền ký quỹ ứng cử tổng thống, sẽ diễn ra vào giữa tháng 9/1971 (1 lượng vàng lúc ấy giá khoảng 7 nghìn đồng). Lục soát ghe, toán Giang cảnh phát hiện hàng chục chiếc cần xé, chiếc nào chiếc nấy đựng đầy những đồng tiền kim loại. Sau này khi kiểm đếm thì đúng là ghe chở theo 1 triệu đồng thật, nhưng mà toàn loại bạc cắc 1 đồng!

Trước sự việc kỳ lạ ấy, nhất là phần lớn những người trên ghe đều ở trong độ tuổi phải đi lính nhưng không ai có giấy hoãn dịch, toán Giang cảnh liền áp tải chiếc ghe về Bộ chỉ huy Giang đoàn 81, đóng tại Mỹ Tho. Sau khi bộ phận An ninh Quân đội Sài Gòn đến thẩm tra, họ kết luận Nguyễn Thành Nam bị bệnh tâm thần vì ông khẳng định nếu trở thành tổng thống, một tuần sau Việt Nam sẽ có hòa bình.

Lúc viên sĩ quan An ninh Quân đội phụ trách thẩm vấn ông, hỏi bằng cách nào để có hòa bình trong một tuần thì ông "đạo Dừa" điềm nhiên trả lời: "Tôi sẽ mời mấy anh em ngoài Bắc vô, giao chính quyền cho họ là xong!". Hỏi ông làm sao có đủ 40 chữ ký ủng hộ của dân biểu hoặc nghị sĩ Quốc hội và 100 chữ ký ủng hộ của các nghị viên hội đồng tỉnh để ra ứng cử tổng thống theo luật định thì ông cười: "Tôi nói là họ nghe tôi hết".

Cuối cùng, chính quyền Sài Gòn ra quyết định tịch thu 1 triệu đồng rồi đuổi ông "đạo Dừa" về lại địa phương, còn những người trên ghe bị liệt vào tội trốn quân dịch, bị đưa lên Sài Gòn, vào Trung tâm Huấn luyện Quang Trung, đi lính.

Sở dĩ có chuyện "đạo Dừa" Nguyễn Thành Nam chở 1 triệu đồng bạc cắc từ cồn Phụng lên Sài Gòn ứng cử là vì thời điểm ấy, chính quyền Việt Nam Cộng hòa chuẩn bị tổ chức bầu cử tổng thống lần thứ hai. Sau khi gạt Nguyễn Cao Kỳ ra khỏi liên danh với mình (nhiệm kỳ 1967-1971 Kỳ là Phó tổng thống, Thiệu là Tổng thống) và cũng để vô hiệu hóa những ứng cử viên khác, Thiệu chỉ đạo một số dân biểu tay sai trong Hạ viện vận động để thông qua một đạo luật, có hiệu lực từ ngày 3/8/1971, quy định bất cứ người nào muốn ra tranh cử tổng thống thì đều phải có 40 chữ ký ủng hộ của dân biểu hay nghị sĩ Quốc hội và 100 chữ ký của các thành viên trong hội đồng tỉnh, đồng thời phải nộp tiền ký quỹ là 1 triệu đồng.

Tín đồ đạo Dừa hành lễ ở sân Chín Rồng.

Dù thừa tiền nhưng do không đủ chữ ký ủng hộ, Nguyễn Cao Kỳ rút lui còn Dương Văn Minh cũng từ chối ra tranh cử nên cuộc bầu cử chỉ có một ứng cử viên duy nhất (mà dân Sài Gòn hồi ấy gọi là "độc diễn"). Kết quả Nguyễn Văn Thiệu đắc cử tổng thống lần thứ hai với 94% số phiếu bầu (?!).

Không chịu thua, một tuần lễ trước ngày hết hạn ký quỹ, ông "đạo Dừa" tiếp tục lên Sài Gòn nộp tiền ứng cử. Theo nhà báo Wilbur E. Garrett, lúc ấy viết cho tờ Life và là người rất am hiểu về ông "đạo Dừa" vì đã có 2 năm tìm hiểu về cái tôn giáo mà anh ta cho là quái dị thì rút kinh nghiệm lần trước, lần này ông "đạo Dừa" lặng lẽ thuê 2 chiếc xe đò khởi hành từ lúc 3 giờ sáng, chiếc thứ nhất chở ông cùng những đồng đạo đã lớn tuổi để tránh cho họ khỏi bị bắt lính, chiếc thứ hai chở theo 1 triệu đồng tiền giấy. Tuy nhiên, do có mật báo nên khi xe vừa đến trạm kiểm soát Phú Lâm thì bị cảnh sát chặn lại, tịch thu tiền rồi đuổi về.

Chiếc xe đò quay đầu và khi chạy được một đoạn, Nguyễn Thành Nam kêu tài xế dừng lại rồi cùng hai tùy tùng leo lên xe lam, trà trộn với hành khách. Đến trước chợ Bến Thành, ông xuống xe, đứng thuyết giảng về "hòa đồng tôn giáo" và kêu gọi mọi người ủng hộ ông làm tổng thống. Ông nói nếu đắc cử thì ông chỉ "mần việc" đúng 7 ngày thôi. Có người cắc cớ hỏi ông đã là tổng thống, sao không ngồi hết nhiệm kỳ 4 năm chứ mắc mớ gì mà chỉ làm 7 ngày, thì ông trả lời: "7 ngày là đất nước hòa bình rồi, về đi tu cho khỏe".

Chuyện ông "đạo Dừa" ra tranh cử tổng thống được báo chí thời bấy giờ thêu dệt thêm nhiều huyền thoại, thậm chí có tờ báo còn viết rằng 1 triệu đồng tiền giấy mà ông mang theo là tiền… âm phủ! Khi bị cảnh sát tịch thu số tiền này, ông đã nói: "Cậu Hai (thói quen xưng hô của ông) có đem sẵn đây 1 triệu đồng bạc thiệt để ký quỹ nhưng cậu Hai dại gì tốn tiền cho mấy ông dân biểu ký tên giới thiệu cho cậu ra ứng cử. Tiền đâu mà cho mấy ông đó, có cho thì cho giấy lộn, hoặc sang lắm thì cho giấy tiền vàng mã. Nếu tốn bằng giấy vàng mã để mua chữ ký của dân biểu thì may ra cậu Hai chịu".

Theo nhà báo Wilbur E. Garrett, số tiền ông "đạo Dừa" mang theo để tranh cử là tiền thật vì lúc ấy, "đạo Dừa" có hơn 40 nghìn tín đồ nên việc vận động quyên góp 1 triệu đồng không phải là khó lắm.

Trong phóng sự ảnh "Dao Dua - Road to Peace - Đạo Dừa và đường đến hòa bình", Wilbur viết: "2/3 trong số 40 nghìn tín đồ của Nguyễn Thành Nam là thanh niên ở độ tuổi quân dịch. Để trốn lính, họ gia nhập đạo Dừa, mặc quần áo nâu, tóc búi tó, hàng ngày ngồi trên sân Chín Rồng nghe ông đạo Dừa thuyết giảng. Nhiều người trong số họ là con nhà giàu, hàng tuần hoặc hàng tháng gia đình đều chở gạo, mắm đến nuôi họ nên họ rất sốt sắng kêu gọi gia đình góp tiền cho ông tranh cử tổng thống. Nhiều lần, Quân cảnh Sài Gòn ập vào cồn Phụng để bắt lính nhưng do địa thế biệt lập giữa sông Tiền nên tàu bè thường bị phát hiện từ xa, đủ thời gian cho người trốn lính lẩn vào dân hoặc chạy sang cù lao Thới Sơn. Vì vậy, số bị bắt thường rất ít…".

Tuy nhiên, lại có thông tin nói rằng "đạo Dừa Nguyễn Thành Nam ra ứng cử tổng thống năm 1967" nhưng thông tin này không có cơ sở bởi lẽ theo như báo chí Sài Gòn đã tường thuật lời ông "đạo Dừa" nói trước chợ Bến Thành, rằng "cậu Hai dại gì tốn tiền cho mấy ông dân biểu ký tên giới thiệu cho cậu ra ứng cử". Hơn nữa năm 1967, Hạ viện Sài Gòn chưa ban hành đạo luật quy định bất cứ người nào muốn ứng cử tổng thống thì đều phải có chữ ký ủng hộ của dân biểu, nghị sĩ, của các thành viên hội đồng tỉnh, đồng thời phải nộp tiền ký quỹ là 1 triệu đồng.

Ông đạo Dừa là ai?

Sinh ngày 25/12/1909 tại làng Phước Thạnh, tổng An Hòa, quận Trúc Giang, tỉnh Kiến Hòa (nay là xã Phước Thạnh, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre), Nguyễn Thành Nam là con cả trong một gia đình gồm 14 anh em. Cha ông là cai tổng Nguyễn Thành Trúc, có 2 vợ. Vì là con cả nên khi lập ra đạo Dừa, Nguyễn Thành Nam được các tín đồ gọi là "cậu Hai".

Sau khi hoàn tất bậc sơ học ở An Hòa, ông sang Mỹ Tho học tiếp rồi lên Sài Gòn, vào Trường Pétrus Ký (Trương Vĩnh Ký). Năm 1928, Nguyễn Thành Nam qua Pháp, học ngành Hóa tại Trường cao đẳng Hóa chất ở thành phố Rouen, cách Paris khoảng 150km về phía đông bắc. Cũng có tin nói rằng ông đã tốt nghiệp kỹ sư Hóa ở Đại học Sorbone nhưng theo nhà báo Wilbur E. Garrett, ông chỉ học bậc cao đẳng, mà học trường tư.

Những chiếc cần xé chứa 1 triệu đồng ký quỹ ứng cử tổng thống của ông “đạo Dừa”.

Năm 1932, Nguyễn Thành Nam về nước. Cuối năm 1935, đám cưới "cậu Hai" với cô Lộ Thị Nga, người Gò Công được tổ chức linh đình, kéo dài suốt 4 ngày. Hai năm sau, bà Nga sinh con gái đầu lòng, đặt tên là Nguyễn Thị Khiêm. Đó cũng là người vợ và đứa con duy nhất của ông "đạo Dừa".

Sau khi lấy vợ, thay vì ra làm việc cho bộ máy cai trị của thực dân Pháp, thấy Bến Tre là xứ có nhiều dừa nên Nguyễn Thành Nam nghĩ ngay đến việc sản xuất xà bông. Nhưng chỉ một thời gian ngắn, hãng xà bông Thiên Nam của ông sập tiệm vì không cạnh tranh nổi với xà bông Cô Ba, tên thật là Trần Ngọc Trà (còn được gọi là cô Ba Trà), vợ của doanh nhân Trương Văn Bền, người đi đầu trong ngành sản xuất xà bông ở miền Nam.

Thất bại trong kinh doanh, năm 1945 Nguyễn Thành Nam bỏ nhà ra đi. Cho đến bây giờ, chuyện "cậu Hai" lên núi này, chùa kia tu hành chỉ là chuyện "nghe kể lại" nhưng 5 năm sau, khi trở về xã Phước Thạnh, "cậu Hai" dựng đài bát quái cao 14m, đêm đêm lên ngồi tu niệm, thức ăn chủ yếu là trái dừa vào những ngày lẻ, còn ngày chẵn thì bắp nấu, đậu luộc, trái cây và chỉ ăn đúng giờ Ngọ.

Mỗi năm "cậu" tắm một lần vào rằm tháng 4 âm lịch. Nhà báo Wilbur E. Garrett viết: "Sát bờ cồn Phụng, ông đạo Dừa thuê làm một chiếc tàu bằng sắt, trang trí rồng phượng cùng hoa hòe hoa sói lòe loẹt, gọi là thuyền Bát Nhã. Ở khoảng trống trước mũi thuyền, ông đặt những chiếc ghế cho khách ngồi. Mỗi khi có các nhà báo đến phỏng vấn, quay phim, ông ngồi trên chiếc đôn bằng đá, hai đệ tử đứng hai bên, trước mặt đặt cái điện thoại đã cắt đứt dây mà theo lời ông, ông chỉ cần liên lạc bằng tâm linh! Chính hai đệ tử này là người trả lời những câu hỏi của khách, thỉnh thoảng ông mới viết ra giấy để họ kể thêm về những chi tiết ông quên nói ra…".

Năm 1960, ông "đạo Dừa" gây ra một chuyện kinh thiên động địa. Ấy là ông viết thư cho Ngô Đình Diệm để bàn về giải pháp hòa bình, trong đó ông đề nghị Diệm cho tất cả các sĩ quan, tướng tá, binh lính giải ngũ về làm dân, không còn ai cầm súng là sẽ có hòa bình ngay tắp lự! Trong thư, ông tự xưng mình là "Thiên nhơn giáo chủ", có nhiệm vụ xuống thế gian để khôi phục lại nền hòa bình vĩnh cửu cho loài người, và "Hòa đồng tôn giáo" do ông lập ra (bao gồm Phật giáo, Lão giáo, Nho giáo và đạo Thiên Chúa) là cứu tinh của nhân loại. Cuối thư, ông đề nghị Diệm công nhận "Hòa đồng tôn giáo" là… quốc giáo!

Lẽ dĩ nhiên lá thư đó chẳng bao giờ đến tay Ngô Đình Diệm. Một tuần lễ kể từ khi gửi thư, bác sĩ Trần Kim Tuyến, người đứng đầu Sở Nghiên cứu chính trị sai mật vụ xuống bắt Nguyễn Thành Nam rồi giam tại Ty Cảnh sát Kiến Hòa. Sau nhiều ngày xác minh, thẩm vấn, mật vụ kết luận "cậu Hai" bị điên bởi lẽ nằm trong trại giam, ngoài cách nói chuyện kỳ quặc, "cậu Hai" còn lấy chiếc chiếu quây thành vòng tròn, mọi chuyện ăn uống, ngủ nghỉ, phóng uế, "cậu" đều làm ở trong đó, mùi hôi thối xông lên nồng nặc!

Lẽ ra, họ tống "cậu" vào Dưỡng trí viện Biên Hòa (nay là Bệnh viện Tâm thần Biên Hòa) nhưng do gia đình bảo lãnh nên Sở Nghiên cứu chính trị tha "cậu" về quê. Tuy nhiên, Trần Kim Tuyến ra lệnh nếu để "cậu Hai" lọt lên Sài Gòn thì các trưởng ty cảnh sát Kiến Hòa, Định Tường, Long An mất chức hết.

(Còn nữa)

Vũ Cao
.
.
.